Giải trí

3 Bài văn mẫu phân tích tác phẩm "Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác" - Ph.Ăng - ghen (Ngữ văn 11)

Hùng Cường 25/03/2024 - 14:55

Bài văn mẫu lớp 11: Phân tích tác phẩm "Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác" - Ph.Ăng - ghen bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn ngữ văn 11.

ADQuảng cáo

I. Tìm hiểu chung về tác phẩm "Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác" - Ph.Ăng - ghen

1. Tác giả Ph. Ăng - ghen

a. Tiểu sử

- Phri-đơ-rich Ăng-ghen (1820 – 1895) sinh ở thành phố Barmen, tỉnh Rhein, Vương quốc Phổ trong một gia đình chủ xưởng dệt.

- Là nhà triết học, lí luận chính trị xuất sắc người Đức.

- Là nhà hoạt động cách mạng của phong trào Quốc tế cộng sản, người bạn thân thiết của Các – Mác.

b. Sự nghiệp sáng tác

* Các tác phẩm chính:

- Những phác thảo phê phán môn kinh tế chính trị học

- Cùng với Các Mác:

+ Gia đình thánh (Tháng 2 năm 1845);

+ Tuyên ngôn của Đảng cộng sản (1848);

+ Những yêu sách của Đảng cộng sản Đức (Tháng 3 năm 1848).

- Những năm cuối đời:

+ Nguồn gốc gia đình, Chế độ tư hữu và Nhà nước (1884),

+ Luivich Phoiơbach và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức (1866);

+ Biện chứng tự nhiên; Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức (1894).

2. Tác phẩm "Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác"

* Vài nét về Các Mác (1818 - 1883)

- Là nhà triết học và lí luận chính trị vĩ đại người Đức.

- Là lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới.

- Ông sáng tạo chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, xây dựng học thuyết kinh tế Mác-xít, chủ nghĩa xã hội khoa học.

- Học thuyết của ông là vũ khí lí luận và hành động của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống ách thống trị tư sản…

a. Hoàn xảnh ra đời

Văn bản Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác là bài điếu văn của Ăng-ghen đọc trước mộ Các Mác. Được sáng tác vào tháng 3/1883, sau khi Các Mác qua đời.

b. Thể loại và phương thức biểu đạt

- Thể loại: Điếu văn

- Phương thức biểu đạt: Nghị luận

c. Bố cục

- Phần 1 (từ đầu -> vĩ nhân ấy gây ra): Nhắc lại thời điểm Các Mác qua đời, tiên lượng sự mất mát, trống vắng của giai cấp vô sản, nhân dân thế giới và khoa học lịch sử trước cái chết của ông.

- Phần 2 (tiếp -> không làm gì thêm nữa): Đánh giá ba cống hiến vĩ đại của Các Mác.

- Phần 3 (còn lại): Giải thích vì sao Mác bị nhiều người thù ghét và vu khống nhất nhưng lại không có kẻ thù cá nhân – đánh giá sự bất tử của Mác.

d. Giá trị nội dung

- Mác là nhà tư tưởng vĩ đại nhất, nhà hoạt động cách mạng lớn, những cống hiến của Mác trở thành tài sản chung cho cả nhân loại.

- Cảm hứng tiếc thương nhưng chủ yếu nghiêng về khẳng định, ngợi ca công lao và những cống hiến vĩ đại của Mác.

e. Giá trị nghệ thuật

- Lập luận chặt chẽ, luận điểm, luận cứ, luận chứng rõ ràng.

- Mô hình ba phần của văn nghị luận.

- So sánh tăng tiến, trùng điệp.

g. Tóm tắt

Văn bản là bài điếu văn của Ăng-ghen đọc trước mộ Mác. Trong đó ông giới thiệu về khoảnh khắc Mác – một trong số những nhà tư tưởng vĩ đại nhất trong số những nhà tư tưởng hiện đại đã đi vào giấc ngủ ngàn thu. Ăng-ghen đã khẳng định ba cống hiến vĩ đại của Mác với cuộc sống của nhân loại: Tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người; Tìm ra quy luật vận động riêng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện nay và của xã hội tư sản do phương thức đó đẻ ra; Cống hiến vĩ đại nhất là sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, biến lý thuyết cách mạng khoa học thành hành động cách mạng. Qua đó Ăng-ghen đã thể hiện niềm tiếc thương vô hạn đối với sự ra đi của Mác.

ba-cong-hien-vi-dai-cua-cac-mac.png
Phân tích Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác (Ph.Ăng - ghen)

II. Dàn ý chung phân tích tác phẩm "Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác" của Ph.Ăng - ghen

A. Mở bài

- Giới thiệu khái quát về tác giả Ăng-ghen (những nét chính về cuộc đời, sự nghiệp, các sáng tác chủ yếu của ông,...)

- Giới thiệu khái quát về văn bản "Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác (hoàn cảnh ra đời, khái quát giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật,...).

B. Thân bài

* Sự ra đi của Các Mác và tình cảm của Ăng - ghen

- Thời gian và không gian Các Mác ra đi:

+ Thời gian: Chiều ngày 14 tháng 3, vào lúc ba giờ kém mười lăm phút".

ADQuảng cáo

+ Không gian: "trên chiếc ghế bánh"

- Cách diễn đạt giàu hình ảnh về cái chết của Các Mác: "ngừng suy nghĩ", "ngủ thiếp đi", "giấc ngủ nghìn thu".

→ Cách nói giảm, nói tránh để từ đó làm giảm đi sự đau thương, mất mát.

- Hệ quả trước sự ra đi của Các Mác:

+ Một tổn thất to lớn, không gì diễn tả được đối với giai cấp vô sản, với khoa học lịch sử

+ "Nỗi trống vắng" cho toàn nhân loại.

- Tình cảm:

+ Nỗi đau buồn trống vắng

+ Ngợi ca vị trí, công lao to lớn của Các Mác đối với nhân loại

* Những cống hiến vĩ đại của Các Mác

- "Tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người" - cơ sở hạ tầng chính là cơ sở quyết định kiến trúc thượng tầng.

→ Một quan điểm hết sức mới mẻ, khác với những quan điểm trước đây của các nhà khoa học.

- Phát hiện ra giá trị thặng dư - quy luật vận động riêng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và xã hội tư sản.

- Các Mác cho rằng áp dụng khoa học vào thực tế, biến lí thuyết thành hành động trong thực tiễn - đây chính là cống hiến quan trọng nhất của Các Mác.

→ Như vậy, bằng nghệ thuật so sánh tầng bậc, tác giả Ăng-ghen đã làm bật nổi những cống hiến vĩ đại, tầm cỡ của Các-Mác đối với lịch sử nhân loại.

* Đánh giá về những cống hiến của Các Mác

- Trước sự ra đi của Các Mác, hàng triệu, hàng triệu con người, từ những cộng sự cách mạng đến những người công nhân trên khắp thế giới đều "tôn kính, yêu mến và khóc thương ông".

- Ăng-ghen cũng khẳng định rằng Các Mác - "ông có thể có nhiều kẻ địch nhưng chưa chắc đã có một kẻ thù riêng nào cả".

→ Ngợi ca những cống hiến vĩ đại của Các Mác và khẳng định Các Mác chính là một nhà tư tưởng vĩ đại của nhân loại.

C. Kết bài

Khái quát những đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của bài "Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác" và nêu cảm nghĩ của bản thân.

III. Danh sách đề thi phân tích tác phẩm "Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác" - Ph.Ăng - ghen

1. Cảm nhận của anh (chị) khi đọc văn bản Ba cống hiến vĩ đại của Mác của Ph. Ăng-ghen

Ba cống hiến vĩ đại của Mác là bài điếu văn của Ăng-ghen đọc trước mộ Các Mác. Đây là hoàn cảnh đặc biệt, hoàn cảnh bộc lộ sự tiếc thương và nhìn nhận, đánh giá cuộc đời của một con người. Người mất là một vĩ nhân người biết cũng là mội vĩ nhân. Bởi vậy, cùng với nỗi đau đớn tiếc thương vô hạn. Ăng-ghen đã nhấn manh tính chất bất tử trước những cống hiến lớn lao của cuộc đời Mác trong tư tưởng phát triển nhân loại.

Các Mác (1818 -1883) là nhà triết học và lí luận chính trị vĩ đại người Đức, lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới. Phri- đrích Ăng-ghen (1820 -1895) là nhà triết học người Đức, người bạn thân thiết của Các Mác và nhà hoạt động cách mạng nổi tiếng của phong trào công nhân thê giới và Quốc tế cộng sản. Hai ông sống và hoạt động cách mạng trong thế kỉ XIX, thế kỉ sắt thép, thế kỉ chủ nghĩa tư bản xác lập và ổn định trật lự thông trị với những quan hệ lạnh lùng đồng tiền điều hành xã hội. Đây cũng là thế kỉ áp bức nặng nề, thế kỉ đau thương của giai cấp vô sản. Trong hoàn cảnh đó, sự thức tỉnh ý thức cho giai cấp vô sản là cần thiết. Việc bênh vực quyền lợi cho người lao động là yêu cầu cấp bách của thời đại. Trong trận tuyến đấu tranh quyết liệt ấy, các hoạt động lí luận và thực tiễn của Mác có tầm quan trọng đặc biết. Nó thức tỉnh người lao động trên phạm vi toàn thế giới về một tương lai tươi sáng hơn. Giây phút ra đi của Mác, Ăng-ghen đã nhìn nhận lại những cống hiến vĩ đại của Mác đối với giai cấp vô sản toàn thế giới.

Mở đầu bài điếu văn là tình cảm quý trọng và thương tiếc của Ăng-ghen đối với Mác. Tinh cảm đó được bộc lộ chân thành qua việc miêu tả cái chết của Mác. Một cái chết bình thản, nhẹ nhàng không đau đớn của người ra đi nhưng lại là nỗi xót xa, đau đớn, sự mất mát lớn lao cho người ở lại. Cách thể hiện tình cảm của Ăng-ghen vào giây phút cuối cùng của cuộc đời Mác là cách thể hiện tình cảm của một vĩ nhân đối với một vĩ nhân. Lời thông báo giản dị mà hàm chứa ý nghĩa lớn. Thời gian và không gian là bình thường nhưng trong cái bình thường ấy là một vĩ nhân đã ra đi. Như vậy, nó không còn bình thường nữa. Nó đã trở thành một thời khắc lịch- sử bởi vì thời khắc ấy nhìn loại đã chịu một tổn thất lớn. Con người ra đi rất bình thản trong thời khắc ấy là một con người của một lĩnh vực đặc biệt - "nhà tư tưởng". Không phải là nhà tư tướng bình thường mà là "nhà tư tưởng vĩ đại nhất trong những nhà tư tưởng hiện đại". "Hiện đại" ở đây có thể hiểu là tính, chất cách mạng, tính chất mới mẻ và sáng tạo của tư tưởng Mác. "Hiện đai" là sự vượt trội về tính chất, phẩm chất so với thời đại. Trong cách giới thiệu đó, Mác hiện ra là vĩ nhân của thế kỉ mà ông sống. Chính vì vậy, sự ra đi của Mác đã tạo ra một nỗi trống trải lớn đối với nhân loại, đối với khoa học: ''Các Mác mất đi là một tổn thất không sao tả hết được đối với giai cấp vô sản đấu tranh ở châu Âu và Châu Mĩ

Cũng trong thời khắc đặc biệt về sự ra đi của Mác, người viết đã nhìn nhận, đánh giá những cống hiến vĩ đại của Mác. Mác được so sánh với Đác-uyn, một đỉnh cao của thời đại. Nhưng Mác không dừng ở vị trí định cao nhân loại mà còn vượt qua những đỉnh cao ấy trở thành đỉnh cao của mọi đỉnh cao, vĩ nhân của mọi vĩ nhân "nhà tư tưởng hiện đại nhất trong các nhà tư tưởng hiện đại"

Bài điếu văn đọc trước mộ Mác nhưng người viết không nó nhiều về cái chết mà tập trung nhấn mạnh ý nghĩa của sự sống, ý nghĩa của Các Mác và sư bất tử của những đóng góp sáng tạo mà Mác đã cống hiến cho nhân loại, cống hiến vĩ đại của Các Mác giúp nhân loại một lần nữa hiểu những cống hiên quan trọng của một Các Mác mang tầm vóc nhẫn loại. Mác là con người sinh ra để làm đẹp cho cuộc đời để thúc đấy lịch sử tiến lên.

2. Phân tích nghệ thuật lập luận trong văn bản "Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác" (Ph.Ăng - ghen)

Mác và Ăng-ghen, nhắc đến hai con người với rất nhiều những đóng góp to lớn cho sự phát triển của nhân loại ấy người ta cũng nhớ ngay đến tình bạn vĩ đại của hai người. Tình bạn ấy, đến tận giờ phút chia lia cuối cùng cũng vẫn khiến người ta phải cảm phục và xúc động. Ngày Các Mác qua đời, Ăng-ghen đã đọc một bài điếu văn trước mộ của Mác, trong đó, ông đánh giá rất cao cống hiến to lớn của Mác và biểu lộ tình cảm tiếc thương của những người cộng sản trước tổn thất to lớn không thể vù đắp được này. “Ba công hiến vĩ đại của Các Mác” cũng thể hiện nghệ thuật lập luận chặt chẽ và đầy sức hấp dẫn, thuyết phục của nhà triết học, nhà cách mạng Đức Phi-đrích Ăng-ghen.

Các Mác là một nhà triết học và lý luận chính trị vĩ đại người Đức, lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới. Sự ra đi của ông để lại nỗi tiếc thương vô hạn trong lòng nhân loại trong đó có một người bạn đặc biệt là Ăng-ghen. Tất cả tình yêu thương ấy cùng với tài năng của Ăng - ghen đã được đúc kết vào trong những lời điếu văn xót thương. “Ba công hiến vĩ đại của Các Mác” là một bài chính luận được viết trong hoàn cảnh đặc thù, gắn với một sự kiện đặc biệt và gắn với những con người có thật chứ không phải là những hình tượng hư cấu.

Bài văn gồm bảy đoạn với kết cấu ba phần mạch lạc. Phần mở đầu cho thấy không gian, thời gian liên quan tới sự ra đi của Mác. Thời gian ra đi bình thường nhưng trong cái bình thường ấy lại là hình ảnh của một vĩ nhân (nhà tư tưởng vĩ đại nhất trong những nhà tư tưởng hiện đại đã ngừng suy nghĩ). Ngay từ mở đầu, Ăng-ghen đã khẳng định vị trí và vai trò của Các Mác đồng thời tạo cho người đọc những ấn tượng sâu sắc, tiếc nuối về sự ra đi của một người có vai trò quan trọng đối với lịch sử nhân loại. Phần thứ hai, cũng là phần trọng tâm của bài, đề cập đến những công hiến to lớn của Mác. Những cống hiến này được sắp xếp theo trật tự tăng tiến với cách so sánh tầng bậc khẳng định những cống hiến của Mác là vĩ đại và có giá trị trong mọi thời đại. Phần thứ ba đề cập tới các giá trị tổng quát của những công hiến của Mác. Những cống hiến đó đều hướng vào mục tiêu chung là phục vụ nhân loại. Bài điếu văn kết thúc bằng một tiếng khóc bày tỏ tình cảm tiếc thương dưới hình thức một lời cầu nguyện: “Tên tuổi và sự nghiệp của ông đời đời sống mãi!”. Đó vừa là một lời ai điếu nhưng cũng là một lời khẳng định một chân lý không bao giờ thay đổi. Thương tiếc, xót xa cho vị lãnh tụ, Ăng-ghen đồng thời nhân mạnh về ba cống hiến vĩ đại của Mác cho nhân loại và để khẳng định chúng, tác giả đã đưa ra một cách lập luận chặt chẽ với nghệ thuật so sánh theo hình thức tăng tiến đạt hiệu quả rất cao.

Công hiến đầu tiên của Mác là “tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người” qua các thời kỳ lịch sử, mà bản chất của quy luật đó là cơ sở hạ tần (bao gồm tư liệu sản xuất, cách sản xuất tư liệu sản xuất, trình độ phát triển kinh tế...) quyết định kiến trúc hạ tầng của xã hội (bao gồm các hình thức, thể chế nhà nước, tôn giáo, văn học, nghệ thuật...). Đó là phát hiện hết sức mới mẻ, quan trọng đến mức vĩ đại. Nó làm đảo lộn và phá sản tất cả các cách giải thích về lịch sử xã hội trước đó và đương thời. Nó trở thành hạt nhấn của chủ nghĩa duy vật lịch sử, một trong những nền móng cơ bản của triết học Mác. Cách trình bày và đánh giá của Ăng-ghen giản dị, cơ bản và dễ hiểu, kết hợp so sánh tương đồng với bình luận. Nhờ cách so sánh được đặt từ cấp độ ngang bằng này, tác gải đã tạo ra sự đối sánh song song nhằm dụng ý nhấn mạnh (Giồng như Đác - uyn đã... (thì) Mác đã...). Đặc biệt sau vế thứ 2 là sự liệt kê không chỉ kết quả mà còn phân tích, chỉ ra ý nghĩa của kết quả ấy, tạo ra một sự trùng điệp có hiệu quả nghệ thuật rất cao.

Tiếp theo sự so sánh tương đồng là so sánh vượt trội mà sự khẳng định được thể hiện ngay trong câu: “Nhưng không chỉ có thế thôi..”.. Cách lập luận không chỉ nêu luận điểm mà ngay sau đó đưa ra một sự chứng minh đầy sức thuyết phục: “Mác cũng tìm ra quy luật vận động riêng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện nay và của xã hội tư sản do - phương thức đó đẻ ra”. Đó là quy luật về giá trị thặng dư. Tác giả cũng ngay sau đó chỉ ra ý nghĩa to lớn mà Mác phát hiện: đó là một áng sáng để đối lập lại bóng tối mà “các nhà phê bình xã hội chủ nghĩa đều mò mẫm”. Sự so sánh đó còn được nhấn mạnh nhiều lần ngay trong các đoạn tiếp theo.

Với tư cách là một nhà khoa học thì những phát kiến của Mác là vô giá và tên tuổi của ông đã xứng đáng lưu vào sử sách. Nhưng nếu nhận thức về Mác mới chỉ dừng ở đó thì chưa thể thấy hết sự vĩ đại của Mác cũng như sự xót thương của Ăng-ghen đốì với Mác cần phải hiểu thêm Mác từ hai phương điện: con người của phát minh, khám phá và con người của hoạt động thực tiễn. Giữa hai con người ấy có mốì quan hệ nhân quả hết sức chặt chẽ Không chỉ là một nhà bác học một nhà tư tưởng vĩ đại, Mác còn là nhà cách mạng suốt đời đấu tranh để phổ biến, tuyên truyền và thực hiện tư tưởng của mình, ông luôn quan niệm: “Hạnh phúc là đấu tranh” (vì sự nghiệp giải phóng vô sản toàn thế giới, vì hạnh phúc của nhân loại). Hạnh phúc là làm cho người khác hạnh phúc, càng nhiều người hạnh phúc thì cá nhân ông cũng càng cảm thấy hạnh phúc. Và đó mới là công hiến vĩ đại nhất của Mác, là công hiến đưa ông lên tầm của một vĩ nhân của mọi thời đại.

Ở đây, Mác được so sánh với các vĩ nhân khác cùng thời đại, với những thành tự khoa học của thời đại đó. Đây không phải là một sự so sánh tầm thường mà là một sự so sánh đặc biệt: so sánh với những tinh hoa cùng thời đại, so sánh với những phát minh cống hiến quan trọng mà không phải ai cũng làm được và không phải đã có từ thời đại trước. Những con người cũng như những thành quả được so sánh tạo nên tầm vóc con người, tạo ra đỉnh cao của thời đại. Cho nên, cách so sánh ở đây cũng rất đặc biệt: Mác được so sánh với các đỉnh cao cùng thời và Mác không dừng ở vị trí đỉnh cao của nhân loại mà còn vượt qua những đỉnh cao ấy. Bản thân Mác, do đó, trở thành đỉnh cao của mọi đỉnh cao, trở thành vĩ nhân của mọi vĩ nhân, trở thành “nhà tư tưởng vĩ đại nhất trong số những nhà tư tưởng hiện đại”. Đây cũng chính là hiệu quả nghệ thuật của biện pháp kết cấu tầng bậc, kết hợp so sánh tạo ra. Những công hiến của Mác được sắp xếp theo trật tự tăng tiến, công hiến sau lớn hơn cống hiến trước, mặc dù chỉ có được một trong những công hiến đó cũng đủ để họ trở thành vĩ nhân rồi.

Bài điếu văn đề cao hình ảnh của Các Mác nhưng tác giả không nói nhiều đến cái chết và đây là một khía cạnh độc đáo: nhân mạnh ý nghĩa của sự sống, ý nghĩa của cuộc đời Mác và sự bất tử của những đóng góp sáng tạo mà Mác đã cống hiến cho nhân loại. Bài điếu văn không bi lụy, sướt mướt nhưng vẫn đem lại cho người ta cảm giác xót thương sâu sắc vì từ chính những tình cảm của Ăng-ghen đô'i với Mác và từ chính những công hiến vĩ đại của Mác. Qua đó, ta cũng hiểu thêm về tài năng, nhân cách và tình cảm tốt đẹp của Ăng-ghen, một nhà cách mạng, một bậc thiên tài.

Bằng nghệ thuật lập luận chặt chẽ, kết hợp với biện pháp so sánh tăng tiến, Ăng-ghen đã giúp cho chúng ta nhận thức sâu sắc những công hiến vĩ đại của Mác đối với nhân loại. Bài điếu văn mang đến cho người đọc những tình cảm tốt đẹp về hai bậc thiên tài, hai vĩ nhân của thời đại và tình bạn nổi tiếng của họ Các mác và Phri-đrích Ăng-ghen.

3. Phân tích bài "Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác"

Phri-đrích Ăng-ghen (1820 – 1895) là nhà triết học người Đức, bạn thân thiết của Mác và là nhà hoạt động cách mạng nổi tiếng của phong trào công nhân thế giới và Quốc tế cộng sản. Di sản lí luận của ông là một phần quan trọng trong lí luận của chủ nghĩa Mác. Văn bản “Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác” là bài điếu văn của Ăng-ghen đọc trước mộ Mác, trong đó ông đã đánh giá cao cống hiến to lớn của Mác và biểu lộ tình cảm tiếc thương của những người cộng sản trước tổn thất to lớn không bù đắp được này.

Các Mác (1818 – 1883) là nhà triết học và lí luận chính trị vĩ đại người Đức gốc Do Thái, lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới. Những hoạt động cách mạng và triết học của ông diễn ra trong thập niên 1840 – giữa lúc chủ nghĩa tư bản đang trong thời kỳ phát triển và giai cấp vô sản công nghiệp ra đời và có những hoạt động cách mạng chống chế độ tư bản. Học thuyết về chủ nghĩa cộng sản khoa học của Mác mở đường cho nhân loại bước vào kỉ nguyên xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Học thuyết của ông là vũ khí lí luận và hành động của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống ách thống trị tư sản.

Nhưng đáng tiếc và đau buồn thay khi vào lúc “Chiều ngày 14 tháng ba, vào lúc ba giờ kém mười lăm phút”, thì nhà tư tưởng hiện đại của nhân loại đã “ngừng suy nghĩ”. Cách nói giảm nói tránh được tác giả sử dụng một cách khéo léo, nhẹ nhàng, điềm đạm. Mọi người đã bày tỏ sự bất ngờ, sốc trong im lặng, chỉ biết đứng đó, lặng nhìn ông “chúng tôi đã thấy ông ngủ thiếp đi thanh thản trên chiếc ghế bành – nhưng là giấc ngủ nghìn thu”. Tác giả đã ẩn dụ hình ảnh “giấc ngủ nghìn thu” nghĩa là Các Mác đã vĩnh viễn ra đi, sẽ không còn hiện diện trên cõi đời này nữa. Cũng là cách nói đầy tình cảm, thể hiện sự tiếc nuối, thương cảm và xót xa với một con người vĩ đại của nhân loại.

“Con người đó ra đi là một tổn thất không sao lường hết được”, tác giả đề cao, ca ngợi tài năng của Các Mác, là người không ai có thể thay thế bởi những đóng góp vô cùng to lớn của ông đối với khoa học lịch sử, đối với giai cấp vô sản đang đấu tranh ở châu Âu và châu Mĩ. Tất cả chúng ta rồi sẽ cảm thấy trống vắng do sự qua đời đột ngột của “bậc vĩ nhân” ấy. Cũng qua đó thể hiện tình cảm của Ăng-ghen đối với người bạn thân thiết Các Mác.

Để rồi trong tang lễ đầy nước mắt ấy, Ăng-ghen đã đọc điếu văn ngợi ca những đóng góp quý giá của Các Mác đối với nhân loại, không ai có thể phủ nhận và sẽ mãi nhớ về nó. Ăng-ghen đã nêu ra những cống hiến theo một trình tự hợp lí với mức độ tăng tiến. Đầu tiên, “Mác đã tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người”, bản chất của quy luật này là cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng nghĩa là vật chất quyết định ý thức. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội chứ không phải ngược lại, phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung.

Lập luận của tác giả vô cùng chặt chẽ, ông đã đưa ra một so sánh ngang bằng “giống như”. Giống như Đác-uyn đã tìm ra quy luật phát triển của thế giới hữu cơ, thì Mác cũng tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người. Ăng-ghen đã đề cập đến những cống hiến của Mác một cách có trật tự, sắp xếp và theo mức độ tăng tiến, “giống như” rồi đến “nhưng không chỉ có thế thôi” quan trọng của mỗi đóng góp ấy.

Đến thành tựu thứ hai: “Mác cũng tìm ra quy luật vận động riêng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện nay và của xã hội tư sản do phương thức đó đẻ ra”. Ông đã tìm ra quy luật của giá trị thặng dư, nghĩa là giá trị lao động sống tạo thêm ra ngoài giá trị sức lao động, là lao động không công của người công nhân làm thuê. Ông đã mang tới một luồng ánh sáng mới, khi chưa có ai phát hiện ra, họ đều mò mẫn trong bóng tối thì Mác đã tìm ra được, khai sáng được những thắc mắc của các nhà khoa học, các nhà phê bình xã hội chủ nghĩa. Đây là quy luật tiền đề quan trọng để xây dựng một xã hội công bằng tốt đẹp, không có sự bóc lột.

Và cống hiến thứ ba được nhắc đến là cống hiến to lớn quan trọng và vĩ đại nhất. Mác đã kết hợp giữa lí luận và thực tiễn. Khoa học với Mác là động lực lịch sử, động lực cách mạng, ông đã mang lại niềm vui cho chính mình khi những phát kiến của mình nhanh chóng có tác động cách mạng đến công nghiệp, đến sự phát triển lịch sử. Mác là một nhà cách mạng, ông tham gia vào việc lật đổ xã hội tư sản và các thiết chế nhà nước, tham gia vào sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản hiện đại. Đấu tranh chính là hành động tự nhiên của Mác, ông đã hoạt động một cách say sưa, miệt mài, kiên cường, nhiệt huyết hết mình và có kết quả.

Tất cả những đóng góp ấy đã đi vào lịch sử nhân loại, đánh dấu tên tuổi của nhà lãnh tụ kiệt xuất, để lại những dấu ấn vô cùng sâu đậm trong lòng mỗi người. Ông đã rất say mê học hỏi không ngừng và đạt nhiều thành quả nên không thể tránh khỏi bị căm ghét, vu khống, đổ tội cho ông. “Các chính phủ – cả chuyên chế lẫn cộng hòa – đều trục xuất ông, bọn tư sản – cả bảo thủ lẫn dân chủ cực đoan – đều thi nhau vu khống và nguyền rủa ông”. Nhưng ông bỏ ngoài tai những lời thị phi thiên hạ, sống chân chính, đúng đắn. Để rồi khi bậc vĩ nhân kì tài ấy mất đi, tất cả mọi người đã tôn kính, yêu mến và khóc thương ông, dù có rất nhiều kẻ thù địch nhưng tất cả đều công nhận tài năng của ông nên rất kính trọng và tiếc nuối trước sự ra đi này.

Câu cuối cùng của tác phẩm, tác giả viết nên như lời khẳng định, công nhận những công lao mà Mác đã cống hiến cho xã hội loài người: “Tên tuổi và sự nghiệp của ông đời đời sống mãi!”. Đây chính là minh chứng hùng hồn về sự bất tử của học thuyết Mác. Kết thúc bằng một dấu chấm than đầy cảm xúc, biểu cảm, đến đây tất cả xúc cảm tâm sự chỉ còn đọng lại trong sự lặng im và tưởng nhớ.

Các Mác là người thầy vĩ đại không chỉ của cách mạng Việt Nam nói riêng mà là của toàn thể giai cấp vô sản, toàn thể loài người tiến bộ nói chung.Trong điều kiện thời đại ngày nay đã có nhiều biến đổi sâu sắc, nhiều điểm khác nhau về con đường và xu thế phát triển của từng dân tộc cũng như nhân loại, song con đường mà Các Mác đã vạch ra cho sự nghiệp giải phóng các dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người mãi mãi là chân lý của loài người quan tiến bộ. Các Mác vẫn sống mãi, có giá trị và sức sống trường tồn. Tư tưởng, lý luận ấy của Các Mác và chủ nghĩa Mác là một kho tàng vô giá, mãi mãi cần phải khám phá, hiểu biết, vận dụng và phát triển.

Bằng những lập luận chặt chẽ, kết hợp biện pháp so sánh ấn tượng, Ăng-ghen đã giúp chúng ta nhận thức sâu sắc những cống hiến vĩ đại của Mác đối với xã hội loài người. Đồng thời là sự tôn trọng, kính mến, ngợi ca ông.

ADQuảng cáo
(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
3 Bài văn mẫu phân tích tác phẩm "Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác" - Ph.Ăng - ghen (Ngữ văn 11)
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO