Giải trí

5 bài văn mẫu phân tích đoạn trích Tình yêu và thù hận ( Trích Rô - mê - ô và Giu - li - ét) của Sếch - Xpia (Ngữ văn 11)

Hùng Cường26/03/2024 10:13

Bài văn mẫu lớp 11: Phân tích đoạn trích Tình yêu và thù hận của Sếch - xpia bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn ngữ văn 11.

ADQuảng cáo

I. Tìm hiểu chung về đoạn trích Tình yêu và thù hận (Sếch - xpia)

1. Tác giả Sếch Xpia

- Uy-li-am Sếch-xpia (1564 – 1616) sinh ra tại nước Anh.

- Năm 1578 gia đình sa sút, ông buộc phải thôi học.

- Năm 1585 ông lên Luân Đôn kiếm sống và bắt đầu sự nghiệp nghệ thuật.

- Năm 1612 ông rời Luân Đôn về quê sinh sống.

- U. Sếch-xpia viết hơn 40 vở kịch, tất cả đều dưới dạng thơ, và được chia thành ba loại:

+ Hài kịch: Giông tố, As you like it, Cardenio, ...

+ Bi kịch: Hamlet, Othello, King Lear, Romeo and Juliet,...

+ Kịch lịch sử: King John, Henry V, Richard II,...

- Tác phẩm của ông là tiếng nói của lương tri tiến bộ, của tự do, của lòng nhân ái bao la và của niềm tin bất diệt vào khả năng hướng thiện và khả năng vươn dậy để khẳng định cuộc sống con người.

⇒ Cống hiến của U. Sếch-xpia in đậm dấu ấn lên kịch nghệ và văn chương các thế hệ sau.

2. Tác phẩm

a. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác

- Vở kịch Rô-mê-ô and Giu-li-ét được viết vào khoảng những năm 1594 – 1595, dựa trên câu chuyện có thật về mối hận thù giữa hai dòng họ Môn-ta-ghiu và Ca-piu-lét, tại Vê-rô-na (I-ta-li-a) thời trung cổ.

- Đoạn trích Tình yêu và thù hận thuộc hồi 2, lớp 2 của vở kịch này.

b. Thể loại và phương thức biểu đạt

- Thể loại: Kịch

- Phương thức biểu đạt: Tự sự, miêu tả, biểu cảm

c. Bố cục

- Phần 1 (Từ lời thoại 1 đến 6): Lời độc thoại thổ lộ tình yêu thầm kín của Romeo và Juliet.

- Phần 2 (Còn lại): Lời đối thoại của Rô-mê-ô và Giu-li-ét.

d. Giá trị nội dung

Thông qua câu chuyện tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-ét, tác giả ca ngợi và khẳng định vẻ đẹp của tình người, tình đời theo lí tưởng chủ nghĩa nhân văn.

e. Giá trị nghệ thuật

- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, đặc biệt thành công ở những đoạn độc thoại nội tâm.

- Cách nói, lối nói hồn nhiên của hai nhân vật, cách sử dụng lối nói của nhau để xóa đi sự ngăn cách mà hận thù tạo ra.

g. Tóm tắt

Rô-mê-ô và Giu-li-ét là vở bi kịch nổi tiếng đầu tiên của Sếch-xpia. Đoạn trích Tình yêu và thù hận nằm ở phần đầu hồi II của vở kịch. Hai dòng họ phong kiến Ca-piu-lét và Môn-ta-ghiu ở thành Vê-rô-na nước I-ta-li-a vốn thù địch lâu đời. Một đêm, Rô-mê-ô, chàng trai thuộc dòng họ Môn-ta-ghiu đeo mặt nạ hóa trang, đột nhập vào buổi dạ hội của dòng họ Ca-piu-lét, để tìm gặp Rô-da-lin – một cô gái mà chàng theo đuổi nhưng lại gặp Giu-li-ét, con gái vị trưởng tộc Ca-piu-lét. Hai người yêu nhau. Bất chấp trở ngại là sự thù địch của hai dòng họ, đôi tình vượt lễ giáo phong kiến để làm lễ thành hôn. Trong cùng hôm đó, Rô-mê-ô để trả thù cho bạn là Mơ-kiu-xi-ô, đã giết Ti-bân, anh họ của Giu-li-ét. Vương chủ thành Vê-rô-na ra lệnh trục xuất Rô-mê-ô. Nhờ sự giúp đỡ của vú nuôi Giu-li-ét, đêm hôm đó Rô-mê-ô đã gặp được người yêu để từ biệt.

tinh-yeu-va-thu-han.png
Phân tích đoạn trích Tình yêu và thù hận (Trích Romeo và Juliet của Sếch - xpia)

II. Dàn ý chung phân tích đoạn trích Tình yêu và thù hận (Sếch - xpia)

A. Mở bài

- Giới thiệu sơ lược về cuộc đời và sự nghiệp của Uy-li-am Sếch-xpia.

- Rô-mê-ô và Giu-li-ét là vở bi kịch kinh điển về tình yêu, là kiệt tác văn học ra đời dựa trên mối thù hận có thực của hai dòng họ Môn-ta-giu và Ca-piu-lét tại I-ta-li-a thời trung cổ.

- Tình yêu và thù hận trích trong lớp hai, hồi II của vở kịch là những lời tâm sự tận đáy lòng của đôi trai tài gái sắc, hai trái tim cùng hướng về thứ tình yêu đích thực, sẵn sàng từ bỏ, vượt qua những rào cản thù hận dòng họ để đến bên nhau.

B. Thân bài

a. Tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-ét:

- Là tình yêu trên nền thù hận, với Giu-li-ét sự thù hận của hai dòng họ được nhắc đến như một nỗi sợ, nỗi ám ảnh thường trực.

- Với Rô-mê-ô chàng luôn mang tâm thế sẵn sàng, vượt lên trên thù hận với thái độ quyết đoán, sẵn sàng từ bỏ cả tên họ, từ bỏ cả dòng tộc vì tình yêu với Giu-li-ét, nhưng chàng lại băn khoăn và e dè vì chưa xác định được tình yêu của Giu-li-ét.

b. Những lời muốn ngỏ của hai nhân vật thông qua màn độc thoại nội tâm:

* Rô-mê-ô với 6 lời thoại:

- Bối cảnh: Đêm khuya thanh vắng, tĩnh mịch có ánh trăng, có những vì tinh tú, phù hợp để giãi bày tâm sự.

- Rô-mê-ô có những lời tán dương đầy si mê cho Giu-li-ét ví nàng như "mặt trời"với nhiều ẩn ý:

+ Vẻ đẹp của người con gái trẻ trung, rực rỡ, vẻ đẹp ấy giống như ánh dương ấm áp sáng chói tâm hồn hồn chàng.

+ Vẻ đẹp của nàng tỏa ra thứ ánh sáng cạnh tranh với thiên nhiên, thậm chí lấn át của ánh trăng khiến cho nó trở nên nhợt nhạt xanh xao.

+ Xuất phát từ thần thoại La Mã về mặt trăng, mà bản thân Rô-mê-ô lại ao ước một tình yêu thực tế, tươi đẹp gần sát với trần thế => Giu-li-ét phải xứng đáng với hình tượng mặt trời ấm áp

+ Giu-li-ét lại xuất lúc chàng rơi vào tuyệt vọng, chính tình yêu của nàng đã hồi sinh tâm hồn chàng.

=> Chính Giu-li-ét đã mang đến sức mạnh, củng cố nguồn sống, là sự hiện diện tuyệt đối cần thiết trong cuộc đời chàng

- Ví mắt nàng như vì tinh tú.

=> Chủ nghĩa nhân văn thời Phục Hưng, vẻ đẹp của con người đã được tôn vinh để sánh ngang với vẻ đẹp của vũ trụ, thổi bùng lên ngọn lửa yêu đương mãnh liệt ở Rô-mê-ô.

* Giu-li-ét với 3 lời thoại:

- "Ôi chao", cảm xúc chất chứa dồn nén ở trong ấy, đó là tình cảm gói ghém dành cho mối tình đầu tiên của mình, nhưng cũng là tiếng thở dài lo lắng, là nỗi băn khoăn của nàng về tình yêu của Rô-mê-ô.

- Đề ra giải pháp là một trong hai người họ phải từ bỏ dòng họ, có thể thấy rằng tình yêu của Giu-li-ét dành cho Rô-mê-ô là vô cùng lớn lao, là lời mách bảo chân thành của trái tim.

- Dùng lý lẽ để bảo vệ, biện minh cho việc từ bỏ dòng họ vì tình yêu "Chỉ có tên họ...đổi lấy cả em đây!".

=> Dường như Giu-li-ét đã không còn là cô bé 14 tuổi nữa mà đã vụt trưởng thành, chín chắn.

c. Cuộc chạm mặt trực tiếp để bày tỏ tình cảm:

* Giu-li-ét:

- Luôn ám ảnh nỗi sợ hãi thường trực, nàng luôn gợi nhắc về mối thù của hai đại gia tộc mà hiện thân của nỗi lo lắng ấy chính là bức tường đá.

- Bức tường đá bảo vệ dòng họ khỏi sự đột nhập của những kẻ có ý đồ bất chính, là sự ngăn trở tình yêu, là rào cản, là mối thù sâu đậm của hai dòng họ, nó còn là biểu tượng cho nỗi lo lắng của Giu-li-ét về tình yêu của Rô-mê-ô.

* Rô-mê-ô:

- Suy nghĩ của Rô-mê-ô lại thoáng và nhẹ nhàng hơn rất nhiều, lập tức khẳng định chàng sẵn sàng từ bỏ tên họ để xóa bỏ mối thù.

- Xóa tan mọi băn khoăn lo lắng của Giu-li-ét về tình yêu của chàng bằng cách khẳng định chắc chắn về tình yêu mãnh liệt dành cho nàng.

- Hình bóng bức tường trở thành đòn bẩy, là công thức chính minh cho tình yêu của Rô-mê-ô.

C. Kết bài

Khẳng định lại giá trị nội dung tư tưởng của đoạn trích.

III. Viết đoạn văn ngắn phân tích đoạn trích Tình yêu và thù hận của Sếch - xpia

1. Phân tích vẻ đẹp của thiên nhiên thơ mộng trong đoạn trích "Dưới trăng đôi trẻ đinh ninh thề nguyền,..."

ADQuảng cáo
ADQuảng cáo

Trong đoạn trích "Dưới trăng đôi trẻ đinh ninh thề nguyền", ngoài vẻ đẹp của tình yêu trong sáng, cao cả vượt qua tất cả mọi rào cản hận thù, thứ tình cảm xuất phát từ trái tim chân thành của Rô-mê-ô và Giu-li-ét. Thì vẻ đẹp của tình yêu ấy còn có sự phụ trợ và tô điểm của vẻ đẹp thiên nhiên thơ mộng, góp phần làm cho bức tranh tình yêu thêm lãng mạn, một vẻ đẹp tuyệt đối riêng tư và trữ tình.

Thứ nhất, đôi trẻ gặp nhau buổi dạ vũ, đã thầm yêu nhau sâu sắc từ cái nhìn đầu tiên nhưng chưa có dịp thổ lộ. Chàng Rô-mê-ô vì quá say đắm và nhớ nhung nàng Giu-li-ét nên đã quay lại mong được gặp mặt nàng cho vơi bớt nhớ thương. Đêm khuya cũng là lúc vạn vật đã ngủ say, thù hận đã lắng xuống, im lặng, chỉ còn lại hai con người với nỗi khắc khoải nhớ mong, chính bóng tối đã cho họ cơ hội được bày tỏ nỗi lòng giấu kín trong tim, mà không một ai có thể biết được. Cũng chính bóng tối đã che chở chở cho chàng Rô-mê-ô khỏi những cái nhìn thù hận, khỏi tai mắt người nhà Giu-li-ét, bảo vệ chàng an toàn để bộc lộ tình cảm với Giu-li-ét yêu quý.

Trong đoạn trích có sự xuất hiện của ánh trăng, nhưng trong mắt Rô-mê-ô dù ánh trăng có rực rỡ đến thế nào cũng phải mờ nhạt trước vẻ đẹp của nàng Giu-li-ét. Trên trời cũng thấy sự xuất hiện của hai vì sao sáng rực rỡ nhất bầu trời, nhưng những vì sao ấy dường như cũng đang soi sáng đôi mắt giai nhân. Dường như vẻ đẹp của thiên nhiên đã trở thành bước đệm để tôn vinh vẻ đẹp của Giu-li-ét và cũng trở thành phương tiện để chàng Rô-mê-ô diễn đạt mối tình si của mình với nàng Giu-li-ét.

Mặc dù trong đoạn trích, thiên nhiên không được diễn tả nhiều, mà chỉ thông qua lời thoại của nhân vật, tuy nhiên ta cũng có thể cảm nhận được những vẻ đẹp riêng của nó, đó là "một vầng trăng dát bạc treo trên những ngọn cây", đầy lãng mạn. Và dưới khung cảnh ngập ánh trăng lành lạnh, đêm tối mập mờ, đã trở thành một không gian rất đỗi riêng tư và tự do cho đôi trẻ thể hiện tình yêu cháy bỏng của mình. Thiên nhiên ở đây, bóng tối ở đây không hề lạnh lùng đáng sợ như người ta vẫn thường mường tượng mà nó lại trở nên thật ấm áp, hiền hòa đang che chở bảo bọc cho đôi tình nhân trẻ.

Như vậy, vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên trong trích đoạn chỉ xuất hiện rất ít, thấp thoáng qua lời thoại của nhân vật nhưng lại đem đến nhiều cảm xúc và ý nghĩa đối với độc giả. Vẻ đẹp đó là sự hòa quyện của nét hiền hòa, thơ mộng của thiên nhiên và sự lãng mạn, trong sáng của tình yêu đôi lứa.

IV. Danh sách đề thi phân tích đoạn trích Tình yêu và thù hận (Sếch - xpia)

1. Phân tích diễn biến tâm trạng của Rô-mê-ô và Giu-li-ét qua 16 lời thoại trong trích đoạn Tình yêu và thù hận (trích bi kịch Rỏ-mê-ô và Giu-li-ét cúa Sếch-xpia) để thấy được tình yêu mãnh liệt của họ đã vượt lên thù hận

Từ lâu, trong đời sống văn học nhân loại, mối tình Rô -mê-ô và Giu-li-ét trong vở bi kịch cùng tên của đại văn hào Sếch-xpia đã trở thành biểu tượng cho tình yêu chung thủy, mãnh liệt. Mặc dù bi kịch kết thúc, cả hai đều chết, nhưng tình yêu của họ đã chiến thắng, thù hận được xóa bỏ. Mười sáu lời thoại trong trích đoạn của hổi thứ hai đã bắt đầu hé mở về một sức mạnh tình yêu vượt lên thừ hận.

Uy-li-am Sếch-xpia (1564-1616) là một nhà thơ, nhà viết kịch thiên tài của nước Anh và của nhân loại thời kì Phục hưng, thời kì của chú nghĩa nhân văn, kết tinh khát vọng tự giải phóng cùa con người khỏi những xiềng xích phong kiến và chù nghĩa khổ hạnh của Giáo hội thời trung cố. Với một tài năng xuất chúng, Sếch-xpia đã để lại 37 vở kịch mà phần lớn đều trở thành kiệt tác trong kho tàng văn học nhân loại. Từ những điển hình nghệ thuật sinh động, ông tái hiện trung thành hiện thực xã hội nước Anh đương thời; phơi bày tội ác phong kiến với những mối hận thù truyền kiếp, những quan niệm luân lí và lễ giáo khắc nghiệt. Đổng thời cũng chỉ ra bộ mặt xảo trá của chủ nghĩa cá nhân tư sản thời kì đầu. Tác phẩm của ông là tiếng nói của lương tri tiến bộ, của khát vọng tự do, của lòng nhân ái bao la, niềm tin bất diệt vào khả năng hướng thiện và sức vươn dậy để khẳng định cuộc sống của con người.

Rô-mê-ô vù Giu-li-ét là một trong số những vở kịch nổi tiếng nhất của Sếch- xpia. Dựa vào câu chuyện về món nợ máu truyền kiếp của haị dòng họ Môn-ta-ghiu yà Ca-piu-lét xảy ra thời trung cổ, tại thành phố Vê-rô-na (I-ta-li-a), Sếch-xpia đã xây dựng thành một bi kịch tình yêu và cho ra mắt công chúng lẩn đầu tiên vào năm 1595. Từ bấy đến nay, vở kịch dã đựợc dịch, được chuyển thể và được công diễn ở hầu khắp các nước trên thế giới, vở bi kịch dựa trên xung đột giữa con người với khát vọng yêu dương mãnh liệt và hoàn cảnh thù địch vây hãm. Vượt lên tất cả, Rô- mê-ô và Giu-li-ét đã đến với nhau: Mối tình của họ khẳng định sức sống, sức vươn dậy vượt lên trên mọi hoàn cảnh trói buộc con người. Mối tình đó cũng là lời kết án đanh thép, tố cáo xã hội phong kiến là mối trường thụ địch với tình người, với chú nghĩa nhân văn.

Trong cuộc gặp gỡ kì duyên tại buổi dạ hội, tiếng sét ái tình đã đưa bước chân Rô-mê-ô quay trở lại, vượt tường vào vườn nhà Giu-li-ét. Vầng trăng huyền diệu, lãng mạn đã được nghe tiếng nói yêu thương cháy bỏng thốt ra từ hai con tim của hai người tuổi trẻ. Mười sáu lời thoại trong trích đoạn "Tình yêu và thù hận" chính là lời cùa tình yêu say đắm, lãng mạn đã đưa Rô-mê-ô và Giu-li-ét vượt lên trên hiện thực nghiệt nga của những toan tính, thù hận.

Rô-mê-ô và Giu-li-ét không đối thoại với nhau ngay từ đầu vì lúc này họ chưa nhìn thấy nhau, đúng hơn là chỉ có Rô-mê-ô nhìn thấv Giu-li-ét. Chán" khuất trong tán lá của khu vườn nhìn lên ban công, thấy Giu-li-ét lộng lẫy ngời lên giữa trăng sao. Chàng độc thoại mà như là đối thoại bằng những lời yêu thương có cánh. Giu-li- ét không nhìn thấy Ró-mê-ô dưới tán lá khu vườn nhưng có một chàng Rô-mê-ô hiển hiện trong tâm trí nàng cùng với hận thù giữa hai dòng họ khiến trái tim nàng thổn thức mà như có ai đó bóp nghẹt. Nàng nói với mình mà như nói cùng Rô-mê-ô. Từ lời thoại thứ bảy trở đi, ngôn từ của Rô-mê-ô và Giu-li-ét mới chuyên sang tình thế đối thoại. Sáu lời thoại đầu tiên thực chất là những lời độc thoại nội tâm nhưng được thốt lên thành tiếng, nói khe khẽ, nói một mình, chí để mình nghe.

Trong toàn bộ đoạn trích, Rô-mê-ô có tất cả 8 lời thoại nhưng quan trọng hơn cả là lời thoại đầu tiên cũng là lời thoại dài nhất. Tuy đây chỉ là lời độc thoại nội tâm nhưng dưới ngòi bút nghệ thuật của Sếch-xpia, trong độc thoại dường nhơ vẫn có đối thoại, đảm bảo tính sinh động của kịch. Rô-mê-ô lúc thì như nói với Giu-li-ét vừa xuất hiện ở cửa sổ (Vầng dương đẹp rươi ơi...), lúc thì như đang đối thoại với chính mình (nàng; đang nói kìa...). Đầu tiên, khi thấy Giu-li-ét xuất hiện, Rô-mê-ô choáng ngợp trước nhan sắc tuyệt vời của nàng. Lúc này đang là đêm khuya, một đêm trăng sáng (dạ hội vừa kết thúc, Rô-mê-ô cùng bạn bè ra về nhưng chàng quay lại ngay, trèo tường vào vườn). Trong khung cảng ấy, Rô-mê-ô dễ so sánh người đẹp với chị Hằng; nhưng dưới con mắt của chàng, vầng tráng bì sao được với Giu-li-ét. nhà văn đã để cho chàng so sánh người đẹp với mặt trời mọc lúc rạng đỏng khiến mặt trăng thành héo hon. nhợt nhạt. Lời chí dẫn cho biết Giu-li-ét đã xuất hiện trên cửa sổ. Thế nhưng Ró-mê-ô vẫn nói : "Vầng dương đẹp tươi ơi, hãy mọc lên đi...". Cũng như vào lúc bình minh, vầng thái dương từ từ mọc lên ở chân trời sau những tia sáng báo hiệu đầu tiên, Giu-li-ét thoáng xuất hiện ở cửa sổ rồi, nhưng nàng sẽ hiên ra rực rỡ hơn.

Từ hình ảnh bao quát của Giu-li-ét, Sếch-xpia để cho mạch suy nghĩ của Rô- mê-ô tâp trung vào đôi mắt đẹp của nàng một cách khéo léo bằng cách chuyển dấn: "Nàng nhìn kìa, miệng nàng có nói gì dâu... Đôi mắt nàng lên tiếng", ánh mắt lấp lánh khiến Rô-mê-ô ngỡ là đôi môi mấp máy! Hợp lí lắm. Trong khung cảnh đêm trăng. Rô-mê-ô so sánh đôi mắt nàng như hai ngôi sao đẹp nhất bầu trời. Nhưng đôi mắt nàng chỉ đẹp như hai ngôi sao thôi ư, dù đó là hai ngôi sao đẹp nhất bầu trời? Qua tâm hồn say đắm của chàng, chẳng ngôi sao nàọ có thể bì được với đổi mắt đẹp kia ! Sếch-xpia để cho nhân vật cùa ông đặt ra may giả định: Sao xuống nằm dưới đổi lông mày kia ư ?... Đôi mắt nàng lên thay cho sao ư?... Một cách hết sức tự nhiên, giả định thứ nhất hướng mạch suy nghĩ cùa Rổ-mô-ô chuyển sang ca ngơi đôi gò má rực rỡ cùa nàng tưởng như lúc nào khổng biết, dân đến ý cuối cùng: "Kìa, nàng tì má lên bàn tay ..."

Lời thoại đầu tiên đã thể hiện tầm say đắm của Rô-mê-ô trước nhan sắc người đẹp. Mạch suy nghĩ của chàng diễn ra theo trình tự hợp lí và mối liên tưởng, so sánh của chàng phù hợp với khung cảnh lúc bấy giờ.

Tâm trạng Rô-mê-ô khá đơn giản. Ta chỉ bắt gặp ở chàng tình yêu say đắm không chút đắn đo. Điều đó bộc lộ ngay từ lời thoại thứ nhất. Lời thoại thứ năm (nói Riêng - Mình cư im lặng hay là lên tiếng nhỉ”. Chẳng phải là dấu hiệu băn khoăn của chàng khi biết được nỗi lòng Giu-li-ét (lời thoại 4). Chàng có thể trả lời ngay, trả lời dứt khoát. Tâm trạng Giu-li-ét diễn biến phức tạp hơn. Vừa gặp Rô-mê-ô tại buổi dạ hội, bây giờ về phòng, đứng bên cửa số nhìn ra vườn trong đêm thanh vắng, tướng không có ai, nàng đã thốt lên thành tiếng nỗi niềm riêng. Những lời trực tiếp thổ lộ tình yêu mãnh liệt không chút che giấu, không chút ngượng ngùng (các lời thoại 4, 6). Qua mấy lời thoại ấy, kể cả hai tiếng "ôi chao" (lời thoại 2), ta thấy Giu-li-ét tuy chưa đầy 15 tuổi mà rất chín chắn, cảm nhận được mối tình của mình có thề sẽ vấp phải trở ngại là thù hận giữa hai dòng họ.

Thông thường, người con gái không chủ động thổ lộ tình yêu với người mình yêu. Do vô tình mà Giu-li-ét đã làm chuyện đó. Khi biết có kẻ đã nghe được nỗi lòng của mình, mới đầu có thể nàng nghi người đứng khuất trong bóng tối kia là kẻ xa lạ (lời thoại 8), rồi nàng rõ đó chính là Rô-mê-ô (lời thoại 10). Trong lời thoại 10, chẳng phải ngẫu nhiên Giu-li-ét lại nhắc đến dòng họ Môn-ta-ghiu của Rô-mê-ô, mối thù hận của hai dòng họ vẫn ám ảnh nàng. Các lời đáp của Rô-mê-ô (lời thoại 7, 9, I I) với các từ ngữ "người yêu, nàng tiên yên quy', với quyết tâm dứt khoát dứt bỏ dòng họ Môn-ta-ghiu chưa bảo đảm tình yêu thật sự của Rô-mê-ô đối với nàng. Vì vậy Giu-li-ép mới hỏi một câu tưởng như thừa : ''Anh làm thế nào mà tới được chốn này, anh ơi, và tới làm gì thế?"

Lời đáp của Rô-mê-ô (lời thoại 13) với từ "tình yêu" lần đầu được nói đến và nhắc đi, nhắc lại tới bốn lần dù làm cho Giu-li-ét tin rằng Rô-mê-ô yêu mình. Nàng tin vào tình yêu nhưng nàng vẫn chưa thê tin tưởng tuyệt đối về sức mạnh của tình yêu. Chàng đã vượt được mấy bức tường đá vào đây, nhưng liệu có việc được mối hận thù giữa hai dòng họ hay không ?

Lời đáp của Rô-mê-ô (lời thoại 15) đã giải tỏa mối băn khoăn của Giu-li-ét và câu: "Em chằng đời muốn họ bắt anh nơi đây" là lời nàng tế nhị chấp nhận tình yêu của Rô-mê-ô, khác hẳn với những lời lẽ quá bạo dạn lúc đầu khi nàng tưởng không có ai nghe thấy.

Diễn biến tâm trạng của Giu-li-ét thể hiện rõ nàng yêu Rô-mê-ô nhưng không biết Rô-mê-ô có yêu mình không, nàng sẵn sàng vượt qua thù hận giữa hai dòng họ nhưng không biết Rô-mê-ô có sẵn sàng vượt qua như thế không. Qua 16 lời thoại, vấn đề "tình yêu và thù hận đã được giải quyết".

Xung đột được coi là đặc trưng cơ bản của kịch. Xung đột trong kịch là sự, va chạm gay gắt giữa những lực lượng đối địch, giữa hai hoặc nhiều nhân vật, nhiểu quan điểm, thái độ khác nhau trước cùng một tình huống, hoặc giữa cá nhân với hoàn cảnh; xung đột cụng có thể xảy ra ngay trong lòng người. Xung đột kịch chi phối hành động của các nhân vật và từng bước đòi hỏi phải được giải quyết để thúc đẩy hành động kịch. Thông thường, xung đột là cơ sở của hành động kịch. Tuy nhiên, không phải bất cứ hành động kịch nào cũng được xây dựng trên cơ sở các xung đột. Trong đoạn trích "Tình yên và thù hận", ta dễ nghĩ rằng có xung đột giữa tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-ét với mối thù hận giữa hai dòng họ Ca-piu-lét và Môn-ta-ghiu. Đúng là mối hận thù giữa hai dòng họ có thể cản trở mối tình của đôi trẻ. Nhưng với tất cả những diễn biến tâm lí của Rô-mê-ô và Giu-li-ét diễn ra qua 16 lời thoại, ta không thấy có sự xung đột nào cả, không có một lực lượng nào xuất hiện cản trở tình yêu của họ. Rô-mê-ô gặp Giu-li-ét và yêu nàng không một chút băn khoăn, đắn đo, không có sự giằng xé nội tâm. Trước sau, vì tình yêu, Rô-mê-ô sẵn sàng từ bỏ tên họ của mình, chàng cũng đã khẳng định điều đó nhiều lần với Giu-li ét. Giu-li-ét có nhiều băn khoăn, nhưng là băn khoăn không biết Rô-mê-ô có vượt qua được mối hận ihù kia không, băn khoăn về phía Rô-mê-ô chứ khống phải về bản thân nàng. Có thể nói, ở đây không có xung đột giữa giữa tình yêu và thù hận mà chi có tình yêu trong sáng, mãnh liệt vượt lên trên hận thù.

Khát vọng tình yêu luôn luôn cháy trong trái tim con người nhưng không phải ai cũng đủ dũng khí và sức mạnh để đưa tình yêu vượt lên mọi rào cản. Sức mạnh phải được tạo nên bởi sự cộng hưởng của hai trái tim yêu. Rô-mê-ô và Giu-li-ét chỉ bằng 16 lời thoại đã cho chúng ta thấy rõ sức mạnh của sự cộng hưởng ấy. Họ không chi đưa tình yêu vượt qua rào cản mà còn khiến tình yêu thăng hoa để trở thành bất tử. Thiên tài nghệ thuật của Sếch-xpia cùng với tư tưởng nhân văn của thời đại ông đã cộng hưởng để làm nên điều kì diệu đó.

2. Qua đoạn trích “Tình yêu và thù hận”, chứng minh rằng: “Ca ngợi tình yêu chân chính của con người cũng chính là khẳng định con người"

Tình yêu là vấn đề muôn thuở của văn học, của con người trong mọi thời đại, trong mọi nền văn học. Nói đến con người là nói đến khát vọng tình yêu bởi vì tình yêu là tình cảm thiên liêng, thể hiện con người và tâm hồn con người một cách sinh động và chính xác nhất. Cho nên, ca ngợi tình yêu chân chính của con người cũng là khẳng định con người. Đây là một ý kiến đúng đắn.

Đoạn trích “Tình yêu và thù hận” là câu chuyện tình yêu của chàng Rô-mê-ô và nàng Giu-li-ét, tác giả đã miêu tả tuyệt vời tâm trạng của hai người trẻ tuổi yêu nhau vì tiếng sét ái tình nhưng mối thù truyền kiếp của hai dòng họ Môn-ta-ghiu và Ca-piu-lét đã cản trở tình yêu ấy, nhưng sức mạnh của tình yêu mãnh liệt đã giúp họ vượt lên trên mọi hận thù khổ đau để khẳng định tình yêu vững vàng, cũng chính là khẳng định giá trị con người dám nghĩ dám làm, dám yêu.

Sáu lời thoại đầu là lời độc thoại nội tâm của nhân vật, tác giả để hai nhân vật của mình tự thổ lộ tâm sự tình cảm của mình và qua đó thể hiện mối tình đắm say, nồng nàn của đôi nam nữ. 10 lời thoại còn lại là lời đối thoại giữa 2 nhân vật. Những lời đối thoại trực tiếp nhưng cũng đầy chất thơ, thể hiện tình cảm đôi bên. Vẻ đẹp của Giu-li-ét được miêu tả qua ngôn ngữ lãng mạn của chàng Rô-mê-ô. Nàng Giu-li-ét đã vượt lên trên mọi sự ràng buộc, mọi quy định khắc khe, quy tắc khó khăn của gia đình quý tộc, nàng đã mạnh dạn nói lên tình yêu chân thành đắm say của mình với chàng Rô-mê-ô. Thể hiện một tình yêu chân chính, dám nghĩ dám yêu, dám bày tỏ tiếng nói tâm tư của mình.

Những thế lực, những thành kiến đầy cổ hủ của mối quan hệ phong kiến dần dần không còn hiệu nghiệm nữa nhờ vào lời thề hẹn của hai nhân vật. Một lời thề quan trọng, đánh dấu thời đại trung cổ đang tự phá bỏ, tự tan rã, con người được giải phóng. Mối tình đẹp như mơ của Rô-mê-ô và Giu-li-ét được lột tả rõ nét bằng bút pháp lãng mạn và chất liệu hiện thực.

Trong đoạn trích, ta không hề thấy bất kì một sự xung đột nào giữa hai dòng họ, giữa hai người mà chỉ có tình yêu trong sáng, đẹp đẽ pha chút lo lắng bởi xung quanh là cả một bầu trời thù hận. Trong nội tâm nhân vật không hề có sự mâu thuẫn, đấu tranh, dằn vặt gì cả, không hề phân vân giữ tình yêu và thù hận. Họ đã quyết định đến với nhau và sẵn sàng hi sinh cho tình yêu của mình.

Trong cuộc gặp gỡ hội ngộ đầy duyên nợ tại buổi dạ hội, tiếng sét ái tình với Giu-li-ét đã dìu bước chân chàng quay trở lại, Rô-mê-ô vượt rào nhà của Giu-li-ét để được đến bên cạnh nàng. Ánh trăng sáng huyền diệu là minh chứng chứng kiến cuộc tình lãng mạn, được nghe những nói nói ngọt ngào yêu thương cháy bỏng được thốt ra từ hai con tim đồng điệu chung tình.

Ở lời thoại đầu tiên: “Kẻ chưa từng bị thương thì há sợ gì sẹo”, Rô-mê-ô đã dành trọn con tim yêu cho nàng Giu-li-ét, chàng dùng những lời đường mật miêu tả vẻ đẹp của nàng làm trái tim ai nghe thấy cũng tan chảy. “Đấy là phương đông, và nàng Giu-li-ét là mặt trời!”. Chàng đã so sánh nàng với mặt trời bằng từ “là”, và đến Hằng Nga cũng phải ghen và đố kị “Vừng dương đẹp tươi ơi, hãy hiện lên đi, và giết chết ả Hằng Nga đố kị, héo hon và nhợt nhạt vì đau buồn khi thấy cô hầu cửa của ả lại đẹp hơn ả rất nhiều.” Chàng độc thoại nội tâm nhưng dường như chàng đang đối thoại với chính con tim yêu của mình. “Ôi! Đấy là người ta yêu! Ôi, giá nàng biết nhỉ!” Rô-mê-ô choáng ngợp trước nhan sắc tuyệt trần của nàng.

Tác giả đã giúp nhân vật của mình thể hiện cái nhìn từ bao quát đến chi tiết, chàng đi sâu vào thể hiện vẻ đẹp trong đôi mắt lung linh yêu kiều của nàng: “Đôi mắt nàng lên tiếng, ta sẽ đáp lời.” và chàng cho rằng “chẳng qua hai ngôi sao đẹp nhất bầu trời có việc phải đi vắng, đã thiết tha nhờ ánh mắt nàng lấp lánh, chờ đến lúc sao về.” Rô-mê-ô đã dùng những so sánh phóng đại cường điệu vẻ đẹp của nàng Giu-li-ét, nàng đẹp như một vì sao lấp lánh sáng chói lung linh trên bầu trời cao kia. Chàng đã say đắm, choáng váng trước vẻ đẹp đầy thánh thiện của Giu-li-ét. Chàng đặt ra hàng loạt câu hỏi nhưng chẳng cần giải đáp, những suy tư, nôn nao, rợn ngợp trước vẻ đẹp kiêu sa lộng lẫy của Giu-li-ét. “vậy là gì thế?”, “sao xuống nằm dưới đôi lông mày kia thì thế nào nhỉ?”, … Chàng miêu tả nàng một cách tự nhiên nhất như một hình tượng hoàn hảo về người phụ nữ nhan sắc vẹn toàn. Chàng tiếp tục say đắm với đôi gò má quyến rũ: “Vẻ rực rỡ của đôi gò má nàng sẽ làm cho các vì tinh tú ấy phải hổ ngươi, như ánh sáng ban ngày làm cho đèn nến phải thẹn thùng; còn cặp mắt nàng trên bầu trời sẽ rọi khắp không gian một làn ánh sáng tưng bừng đến nỗi chim chóc sẽ lên tiếng hót vang và tưởng là đêm đã ta.” Chàng còn nguyện ước mình là đôi bao tay để nàng có thể tì má lên và chàng sẽ được mơn trớn gò má ấy của nàng. Qua những lời thoại ấy, cho thấy tâm trạng Rô-mê-ô khá đơn giản, nó hợp lí theo một mạch liên tưởng và những so sánh phù hợp với một khung cảnh đêm khuya lãng mạn như thế. Chàng không chút đắn đo, sẵn sàng từ bỏ họ tên để đến với tình yêu. Tình yêu của Rô-mê-ô đối với nàng Giu-li-ét vô cùng mãnh liệt, cháy bỏng khát khao có được một tình yêu chân chính, đích thực. Tình yêu của đôi nam nữ nảy sinh trong hoàn cảnh vô cùng éo le, khốn cùng. Đó là mối thù hận truyền kiếp qua bao đời của hai dòng họ Môn-ta-ghiu và Ca-piu-lét, tại Vê-rô-na (I-ta-li-a) thời trung cổ.

Có lẽ vì thế mà diễn biến tâm trạng của Giu-li-ét được thể hiện vô cùng phức tạp, rối rắm. “Ôi chao!”, nàng lo lắng rã rời, là tiếng thở dài, là một thời than vãn trong một tâm trạng đầy âu lo, bồn chồn, nôn nao về mối hận thù giữa hai dòng họ. Nàng ý thức về những khó khăn, trắc trở làm con đường đi tới tình yêu càng dài hơn. Nàng khát vọng về một tình yêu đích thực. Giu-li-ét tuổi đời chưa đầy 15 tuổi nhưng nàng đã rất chín chắn trong suy nghĩ, nàng có thể cảm nhận được những khó khăn có thể đến với tình yêu của mình nên đã nhận thức rõ và thể hiện sự lo lắng của mình.

Giu-li-ét đang trực tiếp thổ lộ tình yêu của mình, không hề giấu giếm, ngại ngùng. Điều này chứng minh một điều rằng tình yêu của nàng dành cho Rô-mê-ô cũng vô cùng mạnh mẽ và nồng cháy. Nàng không hề cố tình chủ động thổ lộ tiếng lòng mà do vô tình đã có người thứ ba nghe được. “Người là ai, mà khuất trong đêm tối, chợt biết được điều tôi ấp ủ trong lòng?”

Khi nàng phát hiện có người nghe được tâm sự, tâm tư tình cảm của mình, Giu-li-ét chỉ bình thản, nhẹ nhàng chứ không hốt hoảng, sợ hãi, lúng túng hay lo lắng. Vì nàng nhận ra tiếng của chàng Rô-mê-ô, lúc này nàng đang rất cần một người để chia sẻ, tâm sự, muốn có ai đó thấu hiểu những nỗi lòng của mình. Trong lời thoại, nàng đã nhắc đến tên Rô-mê-ô và tên dòng họ Môn-ta-ghiu bởi lẽ mối thù hận của hai dòng họ đã ám ảnh lấy tâm trí của nàng, hẳn là nàng đã vô cùng mệt mỏi, đau đớn vì tình yêu chia cắt. Rô-mê-ô nói với nàng rắng “Nàng tiên yêu quý của tôi ơi, tôi thù ghét cái tên tôi, vì nó là kẻ thù của em. Nếu chính tay tôi đã viết tên đó, thì tôi xé nát nó ra.” Chính chàng cũng hiểu được nỗi khổ khi phải chứng kiến sự chiến tranh mâu thuẫn của hai dòng họ, chàng muốn bỏ cả tên họ để chứng tỏ tình yêu sâu đậm của chàng. Chàng vượt tường rào, vượt mọi nguy hiểm để đến gặp nàng là “nhờ đôi cánh nhẹ nhàng của tình yêu” và chàng khẳng định mấy vách tường kia không thể ngăn cản được tình yêu chảy bỏng của chàng. Chàng chẳng sợ cái chết vì “ánh mắt của em còn nguy hiểm cho tôi hơn hai chục lưỡi kiếm của họ”. Lời thoại ấy là một tình huống có vẻ không cần thiết lắm nhưng lại có dụng ý cả. Giu-li-ét muốn chính miệng Rô-mê-ô thổ lộ tình cảm của mình. Tâm trạng của Giu-li-ét phức tạp hơn Rô-mê-ô nhưng lại phù hợp và tâm lí của người con gái đang yêu, thể hiện sự chín chắn của tình yêu. Nàng thể hiện rõ tình yêu của mình, yêu Rô-mê-ô tha thiết nhưng không biết tình cảm của chàng thế nào, nàng sẵn sàng từ bỏ dòng họ để theo chàng và lại tự hỏi không biết Rô-mê-ô có chấp nhận vượt qua hận thù để đến bên nàng hay không. Giu-li-ét yêu Rô-mê-ô tha thiết, nhưng với trái tim của một người phụ nữ nhạy cảm, nàng lo lắng cho mối tình của mình và Rô-mê-ô vì nàng yêu chàng say đắm, muốn chàng là một nửa cuộc đời còn lại. Nàng sẵn sàng vượt qua mọi rào cản để giành lấy tình yêu cho riêng mình.

Mối hận thù giữa hai dòng họ không xung đột với tình yêu mà ngược lại, làm nên một tình yêu đủ mạnh mẽ, bền vững của Rô-mê-ô và Giu-li-ét. Cả hai nhân vật đã bất chấp hận thù, vượt lên trên tất cả để nắm tay nhau, để đến với nhau. Xung đột của vở kịch xảy ra ngay trong tim, ngay cả trong suy nghĩ và nó đã chi phối thành hành động. Ta có thể thấy sự xung kịch được nảy ra là “tình yêu và thù hận”, tình yêu của đôi nam nữ trẻ tuổi mâu thuẫn trái ngược với thù hận của hai dòng họ Môn-ta-ghiu và Ca-piu-lét đã gây biết bao cản trở, chật vật, đau đớn. Nhưng có lẽ tình yêu của họ quá đỗi lớn lao vượt lên trên tất cả những tầm thường của cuộc sống để cùng cất cánh bay lên không một chút băn khoăn, đắn đo.

Lời thoại cuối cùng đã giúp cho tình yêu và thù hận được giải quyết bằng sức mạnh phi thường của con tim, của yêu thương trong sáng, mãnh liệt. Cuối cùng, lòng thù hận đã bị xóa vĩnh viễn, chỉ còn tình người bao la. Đây là cốt lõi của tư tưởng nhân văn. Tác giả đã ca ngợi tình yêu trong sáng của Rô-mê-ô và Giu-li-ét. Khát khao về một tình yêu cháy bỏng luôn thường trực trong trái tim con người nhưng không phải ai cũng đủ dũng cảm mạnh mẽ để đến với tình yêu, để hi sinh giữ lấy tình yêu của mình. Sức mạnh vượt qua mọi khó khăn thử thách được tạo ra bởi sự cộng hưởng, kết hợp hài hào giữa hai trái tim, khi nó đủ sức ấm, sức nóng sẽ đốt cháy mọi rào cản, chỉ còn lại những gì đẹp đẽ, bay bổng của tình yêu.

Sếch-xpia đã ca ngợi một tình yêu đầy dũng cảm, chín chắn, là một thứ tình cảm vô cùng đẹp, lung linh nhưng rất khó đoán và đáng trân quý của con người. Chúng ta dành cả cuộc đời để đi tìm một nửa của đời mình, tình yêu giúp ta thăng hoa và khẳng định được bản thân mình trong cuộc sống. Nội dung tác phẩm của ông luôn là tiếng nói của lương tri tiếng bộ, của khát vọng tự do, của lòng nhân ái, của niềm tin bất diệt vào khả năng hướng thiện và khả năng vươn dậy để khẳng định giá trị cuộc sống của con người. Rất phù hợp với nội dung tư tưởng của “Tình yêu và thù hận”, một nhà văn đã từng nói: “Tình yêu xuất phát từ cảm xúc của hai tâm hồn người và do đó chỉ có những người đang yêu mới cảm nhận được hết tình yêu.”

3. Phân tích xung đột kịch trong đoạn trích Tình yêu và thù hận

Sếch-spia là một nhà soạn kịch vô cùng nổi tiếng của nước Anh, ông đã từng được coi là bước ngoặt tiến bộ vĩ đại nhất từ trước đến bây giờ loài người chưa từng thấy, bởi trong văn của ông mang phong cách chủ nghĩa nhân văn, đề cao giá trị của con người, thể hiện khát vọng giải phóng khỏi sự kìm hãm của chế độ phong kiến, một trong số những tác phẩm tiêu biểu là “Tình yêu và thù hận” trích Rô-mê-ô và Giu-li-ét, tác phẩm nói về tình yêu thắm thiết giữa con người với con người, đặc biệt là những đôi trai gái, nhưng do sự chế độ xã hội đã vùi dập tình yêu đó bằng cách cướp đi sự sống của những con người đó.

Tác phẩm thể hiện rõ nét xung đột kịch là sự va chạm giữa những lực lượng đối địch, những quan điểm khác nhau dẫn tới thái độ không hòa hợp, từ đó có cái nhìn về một vấn đề khác nhau tạo nên sự xung đột diễn ra ở bên trong lòng mỗi con người, tác phẩm đã vẽ ra một tình yêu trong sáng đáng trân trọng, một tình yêu say đắm nồng nhiệt giữa hai con người với tính cách trung thực, hồn nhiên trong sáng, nhận thức một cách rõ ràng về quyền sống, quyền được làm người, quyền được hưởng thụ hạnh phúc.

Khi biết người con gái mình yêu ngần ngại trước những xung đột mà dòng họ đem lại chàng Rô-mê-ô đã sẵn sàng vứt bỏ dòng họ để chạy theo tiếng gọi của tình yêu, chỉ cần được nghe tiếng gọi người yêu chàng trai sẵn sàng xóa sạch hết tất cả, sẽ thay tên đổi họ, sẽ xé nát cái tên do chính bản thân mình viết ra, hi sinh tất cả để có được thứ tình cảm thiêng liêng đó. Về phía Giu-li-ét thì mọi chuyện không hề đơn giản như thế, cô luôn bị một thứ vỏ bọc mà dòng họ đem lại kìm hãm cô, bị bóng đen thù hận của dòng họ giàng buộc tình cảm trong con người cô, ẩn sâu bên trong người cô vẫn tồn tại một thứ tình yêu mãnh liệt, một khao khát chân thành, nhiệt huyết của tuổi trẻ dành cho người mình thương. Qua đó tác giả lên án sâu sắc xã hội phong kiến đã kìm hãm con người, tố cáo sự dã man, vô nhân đạo khi giàng buộc con người vào những quan niệm không đáng có, đồng thời thể hiện khát vọng giải phóng tình cảm tự nhiên để thoát khỏi những giàng buộc đạo đức mà xã hội đó đem lại

Xung đột kịch còn được thể hiện giữa tình yêu của đôi nam nữ với mối quan hệ thù hận tồn tại trong hai dòng họ từ rất lâu đời, thù hận mà hai dòng họ đem lại thực sự quá to lớn, sức mạnh của nó đã dẫn tới cái kết bi thảm đó là cái chết của hai con người. Tình yêu đẹp như thế, trong sáng như thế tại sao lại phải kết thúc bằng một cái kết buồn như vậy, tại sao không phải là một cuộc sống tươi đẹp hiện ra trước mắt, hiện ra trong tương lai? Đơn giản vì xã hội chính là mồ chôn cho những tình cảm đẹp đó, mối thù hận giữa hai dòng họ đã chấm dứt một tình yêu đẹp của thế hệ trẻ. Xung đột vở kịch không chỉ dừng lại ở mẫu thuẫn giữa tình yêu và hai dòng họ mà còn là sự xung đột giữa hai chế độ, giữa nền luân lí trung cổ hà khắc khi mà con người phải hi sinh cống hiến cho dòng họ với nhân văn của thời đại phục hưng đề cao con người, để con người thoát ra khỏi sự ràng buộc của xã hội, tình cảm đến và chân trọng nó một cách tự nhiên nhất.

Tác giả đã đem đến cho người đọc một tư tưởng về tình người rất sâu sắc, đó là muốn tình yêu chiến thắng, vượt qua tất cả phải vượt qua được những khó khăn thử thách, vượt qua được sự bất hòa của xã hội. Tình yêu giữa hai con người trong tác phẩm là bất tử, cái chết đã chứng minh cho mối quan hệ bền chặt đó, không một điều gì trong xã hội có thể ngăn cản con người đến với nhau.

4. Phân tích diễn biến tâm trạng của Rô-mê-ô và Giu-li-ét

Từ lâu, trong đời sống văn học nhân loại, mối tình Rô -mê-ô và Giu-li-ét trong vở bi kịch cùng tên của đại văn hào Sếch-xpia đã trở thành biểu tượng cho tình yêu chung thủy, mãnh liệt. Mặc dù bi kịch kết thúc, cả hai đều chết, nhưng tình yêu của họ đã chiến thắng, thù hận được xóa bỏ. Mười sáu lời thoại trong trích đoạn của hồi thứ hai đã bắt đầu hé mở về một sức mạnh tình yêu vượt lên thù hận.

Uy-li-am Sếch-xpia (1564-1616) là một nhà thơ, nhà viết kịch thiên tài của nước Anh và của nhân loại thời kì Phục hưng, thời kỳ của chủ nghĩa nhân văn, kết tinh khát vọng tự giải phóng của con người khỏi những xiềng xích phong kiến và chủ nghĩa khổ hạnh của Giáo hội thời trung cố. Với một tài năng xuất chúng, Sếch-xpia đã để lại 37 vở kịch mà phần lớn đều trở thành kiệt tác trong kho tàng văn học nhân loại. Từ những điển hình nghệ thuật sinh động, ông tái hiện trung thành hiện thực xã hội nước Anh đương thời; phơi bày tội ác phong kiến với những mối hận thù truyền kiếp, những quan niệm luân lí và lễ giáo khắc nghiệt. Đổng thời cũng chỉ ra bộ mặt xảo trá của chủ nghĩa cá nhân tư sản thời kỳ đầu. Tác phẩm của ông là tiếng nói của lương tri tiến bộ, của khát vọng tự do, của lòng nhân ái bao la, niềm tin bất diệt vào khả năng hướng thiện và sức vươn dậy để khẳng định cuộc sống của con người.

Rô-mê-ô và Giu-li-ét là một trong số những vở kịch nổi tiếng nhất của Sếch- xpia. Dựa vào câu chuyện về món nợ máu truyền kiếp của hai dòng họ Môn-ta-ghiu và Ca-piu-lét xảy ra thời trung cổ, tại thành phố Vê-rô-na (I-ta-li-a), Sếch-xpia đã xây dựng thành một bi kịch tình yêu và cho ra mắt công chúng lần đầu tiên vào năm 1595. Từ bấy đến nay, vở kịch đã được dịch, được chuyển thể và được công diễn ở hầu khắp các nước trên thế giới, vở bi kịch dựa trên xung đột giữa con người với khát vọng yêu đương mãnh liệt và hoàn cảnh thù địch vây hãm. Vượt lên tất cả, Rô- mê-ô và Giu-li-ét đã đến với nhau: Mối tình của họ khẳng định sức sống, sức vươn dậy vượt lên trên mọi hoàn cảnh trói buộc con người. Mối tình đó cũng là lời kết án đanh thép, tố cáo xã hội phong kiến là mối trường thù địch với tình người, với chủ nghĩa nhân văn.

Trong cuộc gặp gỡ kỳ duyên tại buổi dạ hội, tiếng sét ái tình đã đưa bước chân Rô-mê-ô quay trở lại, vượt tường vào vườn nhà Giu-li-ét. Vầng trăng huyền diệu, lãng mạn đã được nghe tiếng nói yêu thương cháy bỏng thốt ra từ hai con tim của hai người tuổi (trẻ. Mười sáu lời thoại trong trích đoạn "Tình yêu và thù hận" chính là lời của tình yêu say đắm, lãng mạn đã đưa Rô-mê-ô và Giu-li-ét vượt lên trên hiện thực nghiệt ngã của những toan tính, thù hận.

Rô-mê-ô và Giu-Li-ét không đối thoại với nhau ngay từ đầu vì lúc này họ chưa nhìn thấy nhau, đúng hơn là chỉ có Rô-mê-ô nhìn thấy Giu-li-ét. Chán" khuất trong tán lá của khu vườn nhìn lên ban công, thấy Giu-li-ét lộng lẫy ngời lên giữa trăng sao. Chàng độc thoại mà như là đối thoại bằng những lời yêu thương có cánh. Giu-li- ét không nhìn thấy Rô-mê-ô dưới tán lá khu vườn nhưng có một chàng Rô-mê-ô hiển hiện trong tâm trí nàng cùng với hận thù giữa hai dòng họ khiến trái tim nàng thổn thức mà như có ai đó bóp nghẹt. Nàng nói với mình mà như nói cùng Rô-mê-ô. Từ lời thoại thứ bảy trở đi, ngôn từ của Rô-mê-ô và Giu-li-ét mới chuyển sang tình thế đối thoại. Sáu lời thoại đầu tiên thực chất là những lời độc thoại nội tâm nhưng được thốt lên thành tiếng, nói khe khẽ, nói một mình, chí để mình nghe.

Trong toàn bộ đoạn trích, Rô-mê-ô có tất cả 8 lời thoại nhưng quan trọng hơn cả là lời thoại đầu tiên cũng là lời thoại dài nhất. Tuy đây chỉ là lời độc thoại nội tâm nhưng dưới ngòi bút nghệ thuật của Sếch-xpia, trong độc thoại đường nhơ vẫn có đối thoại, đảm bảo tính sinh động của kịch. Rô-mê-ô lúc thì như nói với Giu-li-ét vừa xuất hiện ở cửa sổ (Vầng dương đẹp rươi ơi...), lúc thì như đang đối thoại với chính mình (nàng; đang nói kìa...). Đầu tiên, khi thấy Giu-li-ét xuất hiện, Rô-mê-ô choáng ngợp trước nhan sắc tuyệt vời của nàng. Lúc này đang là đêm khuya, một đêm trăng sáng (dạ hội vừa kết thúc, Rô-mê-ô cùng bạn bè ra về nhưng chàng quay lại ngay, trèo tường vào vườn). Trong khung cảnh ấy, Rô-mê-ô dễ so sánh người đẹp với chị Hằng; nhưng dưới con mắt của chàng, vầng trán bì sao được với Giu-li-ét. nhà văn đã để cho chàng so sánh người đẹp với mặt trời mọc lúc rạng đông khiến mặt trăng thành héo hon. nhợt nhạt. Lời chỉ dẫn cho biết Giu-li-ét đã xuất hiện trên cửa sổ. Thế nhưng Rô-mê-ô vẫn nói : "Vầng dương đẹp tươi ơi, hãy mọc lên đi...". Cũng như vào lúc bình minh-, vầng thái dương từ từ mọc lên ớ chân trời sau những tia sáng báo hiệu đầu tiên, Giu-li-ét thoáng xuất hiện ở cửa sổ rồi, nhưng nàng sẽ hiện ra rực rỡ hơn.

Từ hình ảnh bao quát của Giu-li-ét, Sếch-xpia để cho mạch suy nghĩ của Rô- mê-ô tập trung vào đôi mắt đẹp của nàng một cách khéo léo bằng cách chuyển dấn : "Nàng nhìn kìa, miệng nàng có nói gì đâu... Đôi mắt nàng lên tiếng", ánh mắt lấp lánh khiến Rô-mê-ô ngỡ là đôi môi mấp máy! Hợp lí lắm. Trong khung cảnh đêm trăng. Rô-mê-ô so sánh đôi mắt nàng như hai ngôi sao đẹp nhất bầu trời. Nhưng đôi mắt nàng chỉ đẹp như hai ngôi sao thôi ư, dù đó là hai ngôi sao đẹp nhất bầu trời ? Qua tâm hồn say đắm của chàng, chẳng ngôi sao nào có thể bì được với đôi mắt đẹp kia ! Sếch-xpia để cho nhân vật của ông đặt ra may giả định : Sao xuống nằm dưới đôi lông mày kia ư ?... Đôi mắt nàng lên thay cho sao ư ?... Một cách hết sức tự nhiên, giả định thứ nhất hướng mạch suy nghĩ của Rổ-mô-ô chuyển sang ca ngợi đôi gò má rực rỡ của nàng tưởng như lúc nào không biết, dẫn đến ý cuối cùng : "Kìa, nàng tì má lên bàn tay /"..

Lời thoại đầu tiên đã thể hiện tầm say đắm của Rô-mê-ô trước nhan sắc người đẹp. Mạch suy nghĩ của chàng diễn ra theo trình tự hợp lí và mối liên tưởng, so sánh của chàng phù hợp với khung cảnh lúc bấy giờ.

Tâm trạng Rô-mê-ô khá đơn giản. Ta chỉ bắt gặp ở chàng tình yêu say đắm không chút đắn đo. Điều đó bộc lộ ngay từ lời thoại thứ nhất. Lời thoại thứ năm (nói Riêng - Mình cứ im lặng hay là lên tiếng nhỉ". Chẳng phải là dấu hiệu băn khoăn của chàng khi biết được nỗi lòng Giu-li-ét (lời thoại 4). Chàng có thể trả lời ngay, trả lời dứt khoát.

Tâm trạng Giu-li-ét diễn biến phức tạp hơn. Vừa gặp Rô-mê-ô tại buổi dạ hội, bây giờ về phòng, đứng bên cửa sổ nhìn ra vườn trong đêm thanh vắng, tưởng không có ai, nàng đã thốt lên thành tiếng nỗi niềm riêng. Những lời trực tiếp thổ lộ tình yêu mãnh liệt không chút che giấu, không chút ngượng ngùng (các lời thoại 4, 6). Qua mấy lời thoại ấy, kể cả hai tiếng "ôi- chao /" (lời thoại 2), ta thấy Giu-li-ét tuy chưa đầy 15 tuổi mà rất chín chắn, cảm nhận được mối tình của mình có thể sẽ vấp phải trở ngại là thù hận giữa hai dòng họ.

Thông thường, người con gái không chủ động thổ lộ tình yêu với người mình yêu. Do vô tình mà Giu-li-ét đã làm chuyện đó. Khi biết có kẻ đã nghe được nỗi lòng của mình, mới đầu có thể nàng nghĩ người đứng khuất trong bóng tối kia là kẻ xa lạ (lời thoại 8), rồi nàng rõ đó chính là Rô-mê-ô (lời thoại 10). Trong lời thoại 10, chẳng phải ngẫu nhiên Giu-li-ét lại nhắc đến dòng họ Môn-ta-ghiu của Rô-mê-ô, mối thù hận của hai dòng họ vẫn ám ảnh nàng. Các lời đáp của Rô-mê-ô (lời thoại 7, 9, I I) với các từ ngữ "người yêu, nàng tiên yên quy', với quyết tâm dứt khoát dứt bỏ dòng họ Môn-ta-ghiu chưa bảo đảm tình yêu thật sự của Rô-mê-ô đối với nàng. Vì vậy Giu-li-ét mới hỏi một câu tưởng như thừa : "Anh làm thế nào mà tới được chốn này, anh ơi, và tới làm gì thế?"

Lời đáp của Rô-mê-ô (lời thoại 13) với từ "tình yêu" lần đầu được nói đến và nhắc đi, nhắc lại tới bốn lần dù làm cho Giu-li-ét tin rằng Rô-mê-ô yêu mình. Nàng tin vào tình yêu nhưng nàng vẫn chưa thể tin tưởng tuyệt đối về sức mạnh của tình yêu. Chàng đã vượt được mấy bức tường đá vào đây, nhưng liệu có việc được mối hận thù giữa hai dòng họ hay không?

Lời đáp của Rô-mê-ô (lời thoại 15) đã giải tỏa mối băn khoăn của Giu-li-ét và câu : "Em chẳng đời muốn họ bắt anh nơi đây" là lời nàng tế nhị chấp nhận tình yêu của Rô-mê-ô, khác hẳn với những lời lẽ quá bạo dạn lúc đầu khi nàng tưởng không có ai nghe thấy.

Diễn biến tâm trạng của Giu-li-ét thể hiện rõ nàng yêu Rô-mê-ô nhưng không biết Rô-mê-ô có yêu mình không, nàng sẵn sàng vượt qua thù hận giữa hai dòng họ nhưng không biết Rô-mê-ô có sẵn sàng vượt qua như thế không. Qua 16 lời thoại, vấn đề "tình yêu và thù hận đã được giải quyết".

Xung đột được coi là đặc trưng cơ bản của kịch. Xung đột trong kịch là sự va chạm gay gắt giữa những lực lượng đối địch, giữa hai hoặc nhiều nhân vật, nhiều quan điểm, thái độ khác nhau trước cùng một tình huống, hoặc giữa cá nhân với hoàn cảnh; xung đột cũng có thể xảy ra ngay trong lòng người. Xung đột kịch chi phối hành động của các nhân vật và từng bước đòi hỏi phải được giải quyết để thúc đẩy hành động kịch. Thông thường, xung đột là cơ sở của hành động kịch. Tuy nhiên, không phải bất cứ hành động kịch nào cũng được xây dựng trên cơ sở các xung đột. Trong đoạn trích "Tình yêu và thù hận", ta dễ nghĩ rằng có xung đột giữa tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-ét với mối thù hận giữa hai dòng họ Ca-piu-lét và Môn-ta-ghiu.

Đúng là mối hận thù giữa hai dòng họ có thể cản trở mối tình của đôi trẻ. Nhưng với tất cả những diễn biến tâm lí của Rô-mê-ô và Giu-li-ét diễn ra qua 16 lời thoại, ta không thấy có sự xung đột nào cả, không có một lực lượng nào xuất hiện cản trở tình yêu của họ. Rô-mê-ô và Giu-li-ét và yêu nàng không một chút băn khoăn, đắn đo, không có sự giằng xé nội tâm. Trước sau, vì tình yêu, Rô-mê-ô sẵn sàng từ bỏ tên họ của mình, chàng cũng đã khẳng định điều đó nhiều lần và Giu-li ét. Giu-li-ét có nhiều băn khoăn, nhưng là băn khoăn không biết Rô-mê-ô có vượt qua được mối hận thù kia không, băn khoăn về phía Rô-mê-ô chứ không phải về bản thân nàng. Có thể nói, ở đây không có xung đột giữa giữa tình yêu và thù hận mà chi có tình yêu trong sáng, mãnh liệt vượt lên trên hận thù.

Khát vọng tình yêu luôn luôn cháy trong trái tim con người nhưng không phải ai cũng đủ dũng khí và sức mạnh để đưa tình yêu vượt lên mọi rào cản. Sức mạnh phải được tạo nên bởi sự cộng hưởng của hai trái tim yêu. Rô-mê-ô và Giu-li-ét chỉ bằng 16 lời thoại đã cho chúng ta thấy rõ sức mạnh của sự cộng hưởng ấy. Họ không chỉ đưa tình yêu vượt qua rào cản mà còn khiến tình yêu thăng hoa để trở thành bất tử. Thiên tài nghệ thuật của Sếch-xpia cùng với tư tưởng nhân văn của thời đại ông đã cộng hưởng để làm nên điều kỳ diệu đó.

5. Phân tích đoạn trích Tình yêu và thù hận của Sếch - xpia

Wiliam Shakespeare là nhà thơ nhà viết kịch nổi tiếng của thời kì phục hưng, ông có tấm lòng nhân đạo sâu sắc đây là lý do ông viết lên những tác phẩm thiên tài của mình, ông để lại cho người đọc nhiều cảm xúc trong những tác phẩm của mình tiêu biểu trong những tác phẩm đó là bài Tình yêu và thù hận.

Tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-ét đã nảy nở và vượt qua những sự thù hận đối lập giữa hai gia đình và hai dòng họ, tình yêu của họ lớn lao, và nảy nở trong đêm lễ hội, cuộc gặp gỡ đã làm cho hai người nảy sinh tình cảm, khi biết được sự thù hận giữ hai dòng họ, tình yêu của họ ngày càng lớn hơn, khi bị ngăn cản nhưng với một trái tim đẹp hai người đã vượt qua hết những ngăn cản và đến với nhau như một chân lý sống của cuộc đời. Tình yêu đã lớn lên và nó vượt qua mọi sự ngăn cản xiềng xích của mọi người, lễ cưới của hai người được tổ chức bí mật ở nhà thờ và nhà thờ là nơi đã chấp nhận tình yêu của họ.

Sự thù hận làm cho học bối dối trong cuộc gặp gỡ chàng trai thì đang nói ghét cái tên của tôi, còn Giu-li-ét thì bối dối và lo lắng cho tình yêu của mình, chàng trai đã dứt khoát từ bỏ dòng họ của mình để đến với tình yêu chân chính, cả hai người đều bỏ qua những thù hận để bù đắp xây dựng tình yêu của mình. Dù lòng thù hận có lớn nhưng tình yêu của họ rất lớn lao họ vẫn rất quyết liệt để bù đắp cho tình yêu của mình. Thù hận không làm mất đi tình yêu đẹp của họ mà nó làm cho học có niềm tin về tình yêu hơn, sự hi sinh của họ thật vô cùng đáng quý tình yêu của họ là bất tử.

Lòng thù hận không được xóa bỏ, nhưng tình yêu đang dần cảm hóa những lòng thù hận đó, nó đang xen vào tâm hồn những con người nơi đây và ấp ủ bao niềm tin và cả những hi vọng đang bừng cháy trong con người họ lòng thù hận khó xóa đi được, nó trở thành một sự giao tranh mà hai bên nhất định phải có một bên thắng và một bên thua nhưng tình yêu lớn lao của hai người đã vượt qua những cái gọi là trật tự để thắng được sự thù hận để đến được với nhau. Tình yêu thật lớn lao , nó có thể cảm hóa tất cả, và cả những cái gọi là khó khăn và gian nao nhất nó cũng có thể vượt qua.

Nỗi đau đớn trong bi kịch tình yêu của hai người khi hai người phải có những quyết định để trả thù cho dòng họ của mình, Rô mê Ô phải giết Ti bản để trả thù cho dòng họ của mình. Giu-li-ét đau khổ vì biết được sự thật là người giết anh con bác mình chính là chồng của mình. Đây là những tình huống bi kịch của tình yêu giữa hai dòng họ, hai người đang lâm vào những tình cảnh hết sức éo le một bên là tình cảm gia đình một bên là tình yêu, họ phải quyết định và đưa ra, nhưng nó thật khó khăn đối với hai người khi đó đều là quyết định giữa một mất một còn, sự trả thù nó là sự mất mát lớn lao, khi tình thù hận giữa hai dòng họ ngày càng được lên cao, nó đang cảm hóa những con người có tấm lòng thù hận. Tình yêu của hai người đang phải đối mặt với những éo le của hoàn cảnh, vì vậy họ thật đau đớn khi biết được những sự thật rất nghiệt ngã và họ quyết định dứt khoát khi đưa ra những quyết định của mình.

Hai người mong ước được xóa đi những lòng thù hận giữa hai dòng họ nhưng không có cách nào có thể lý giải và xóa bỏ được, hai người không thể sống cùng nhau vì vậy họ đã quyết định chết cùng nhau, cuộc sống của họ rất lớn lao khi phải đưa ra những quyết định đó, hai người chết đi không phải là sự bi lụy trong tình yêu mà đó là chết đi để thức tỉnh những con người đang sống về những xóa giải của sự thù hận, người muốn để lại cho những người đang sống giá trị đích thực của sự bình an và những nỗi niềm của hạnh phúc, hạnh phúc là việc mà hai người muốn giành cho mọi người còn đang sống, cái chết của họ có ý nghĩa thức tỉnh rất sâu sắc, sự thù hận đã được xóa bỏ bằng cái chết của hai người.

Tình yêu của Rô mê ô và Giu li ét là tình yêu của lòng cao thượng và sự thủy chúng son sắt, nó xóa bỏ mọi hiềm khích và ngăn cản của mọi người để đến với nhau, những khi lòng thù hận trong hai dòng họ được dâng cao, họ đã quyết định chết cùng nhau để xóa bỏ đi những lòng thù hận đó, tình yêu của họ thật cao thượng biết bao khi họ đang phải sống trong những lòng thù hận đó. Thật đau đớn biết bao khi tình yêu của họ không được sống cùng với nhau, họ mong đợi một niềm tin và những điều mới lạ sẽ đến những sự thật nghiệt ngã biết bao, khi sự thù hận và những ước mong trả thù cho hai dòng họ được lên cao, nó cướp đi một cuốc ống hạnh phúc đáng nhẽ hai người được hưởng nó.

Với lòng nhân đạo của mình tác giả đã viết lên những tình tiết rất đặc sắc của mình trong vở kịch này, trong tác phẩm tác giả đã nói lên những tâm tư và cả những nguyện vọng lớn lao của mình đối với những nhân vật đắt giá của mình. Rô mê ô và Giu li ét là những nhân vật có tình yêu cao thượng, nó trở thành lý tưởng trong tình yêu bởi sự cao thượng vì đã hi sinh để đánh đổi lấy được sự tự do và hạnh phúc của hai dòng họ, khi ban đầu bị sự ngăn cản của mọi người, với tình yêu đẹp đã vượt qua mọi ngăn cản để tìm thấy sự tự do trong tình yêu, tình yêu của họ thật vĩ đại và nó đã để lại nhiều cảm xúc cho người đọc.

Tình yêu và thù hận đã nêu lên tình yêu trong sáng, dũng cảm vượt lên trên cả thù hận. Đây là bài thơ hay về tình yêu nó khẳng định tình yêu là nó sẽ vượt qua mọi thù hận để cập được đến bến bờ của hạnh phúc. Tình yêu trong sáng của họ đã làm hóa giả mọi niềm đau và cả những thù hận, tình yêu của học thật thiêng liêng và đáng kính.

ADQuảng cáo
ADQuảng cáo
ADQuảng cáo
ADQuảng cáo
(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
5 bài văn mẫu phân tích đoạn trích Tình yêu và thù hận ( Trích Rô - mê - ô và Giu - li - ét) của Sếch - Xpia (Ngữ văn 11)
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO