Giải trí

5 bài văn phân tích tác phẩm Đời thừa - Nam Cao - Ngữ văn 11

Hùng Cường26/03/2024 09:22

Phân tích tác phẩm Đời thừa - Nam Cao văn mẫu lớp 11 bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn ngữ văn 11.

I. Tìm hiểu chung tác phẩm Đời thừa - Nam Cao

1. Tác giả Nam Cao

a. Tiểu sử

- Nam Cao (1917 - 1951) tên khai sinh là Trần Hữu Tri, sinh ra trong một gia đình nông dân ở làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lí Nhân (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lí Nhân), tỉnh Hà Nam.

- Cuộc đời Nam Cao trải qua nhiều gian khổ, biến cố. Tháng 11 - 1951, trên đường vào công tác ở vùng địch hậu Liên khu III, ông bị giặc Pháp phục kích và sát hại.

- Con người Nam Cao nhìn bề ngoài có vẻ lạnh lùng, vụng về, ít nói nhưng đời sống nội tâm lại rất phong phú, luôn luôn sôi sục, có khi căng thẳng. Bình sinh, Nam Cao thường day dứt, hối hận, lấy làm xấu hổ về những việc làm, những ý nghĩ mà ông tự thấy là tầm thường của mình.

- Nam Cao là người có tấm lòng đôn hậu, chan chứa yêu thương. Ông gắn bó sâu nặng, giàu ân tình với quê hương và những người nghèo khổ bị áp bức, khinh miệt trong xã hội cũ.

b. Sự nghiệp văn học

* Quan điểm nghệ thuật

- Trong cuộc đời cầm bút, Nam Cao luôn suy nghĩ về vấn đề “sống và viết” rất có ý thức về quan điểm nghệ thuật của mình. Có thể nói, đến Nam Cao, chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam từ năm 1930 đến 1945 mới thực sự tự giác, đầy đủ về những nguyên tắc sáng tác của nó.

- Khi mới cầm bút, Nam Cao chịu ảnh hưởng của văn học lãng mạn đương thời. Nhưng ông đã dần nhận ra thứ văn chương đó rất xa lạ với đời sống lầm than của nhân dân lao động và ông đã đoạn tuyệt với nó để tìm đến con đường nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa.

- Sau Cách mạng, Nam Cao tích cực tham gia kháng chiến, sẵn sàng hi sinh thứ “nghệ thuật cao siêu” của mình với ý nghĩ: lợi ích của dân tộc là trên hết. Tuy ấp ủ hoài bão sáng tác nhưng ông vẫn tận tụy trong mọi công tác phục vụ kháng chiến với quan niệm “sống đã rồi hãy viết”; góp sức vào công việc không nghệ thuật lúc này chính là để sửa soạn cho tôi một nghệ thuật cao hơn.

* Các đề tài chính

- Sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng tập trung vào hai đề tài chính là người trí thức nghèo và người nông dân nghèo: Đời thừa (1943), Chí phèo (1941), Lão Hạc (1943), Một đám cưới (1944), Một bữa no (1943), Giăng sáng (1942),...

- Sau Cách mạng, Nam Cao là cây bút tiêu biểu của văn học giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954): Đôi mắt (1946), Năm anh hàng thịt (1945), Cách mạng (1946), Nỗi truân chuyên của khách má hồng (1946),..

* Phong cách nghệ thuật

- Trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, Nam Cao là nhà văn có phong cách độc đáo. Nam Cao đặc biệt quan tâm đến đời sống tinh thần của con người, luôn có hứng thú khám phá “con người trong con người” dù viết về người nông dân hay người trí thức.

- Nam Cao có khuynh hướng tìm vào nội tâm, đi sâu vào thế giới tinh thần của con người. Ông là nhà văn có biệt tài diễn tả, phân tích tâm lí nhân vật.

- Do am hiểu tâm lí nhân vật nên Nam Cao đã tạo được những đoạn đối thoại, độc thoại nội tâm rất chân thực, sinh động. Nam Cao là nhà văn có giọng điệu riêng: buồn thương chua chát, dửng dưng lạnh lùng mà đầu thương cảm, đằm thắm yêu thương.

- Nam Cao là nhà văn hiện thực lớn, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Sáng tác của ông đã vượt qua những thử thách khắc nghiệt của thời gian, càng thử thách càng sáng ngời. Thời gian càng lùi xa, những tác phẩm của ông lại càng bộc lộ ý nghĩa hiện thực sâu sắc, tư tưởng nhân đạo cao cả và vẻ đẹp nghệ thuật điêu luyện, độc đáo.

2. Tác phẩm Đời thừa

a. Tóm tắt

Hộ là một văn sĩ nghèo mang trong mình nhiều hoài bão ước mơ. Anh là người có lí tưởng sống rất cao đẹp. Là một nhà văn, anh đã từng ước mơ có những tác phẩm lớn, có giá trị vượt thời gian. Nhưng từ khi cứu vớt cuộc đời Từ, cưới Từ về làm vợ, anh phải lo cho cuộc sống của cả gia đình chỉ với những đồng tiền ít ỏi của nghề viết văn. Hộ đã rơi vào tình trạng khốn khổ. Tạm gác ước mơ hoài bão để nuôi gia đình, nhưng rồi nỗi lo cơm áo và những dằn vặt lương tâm của một nhà văn đã biến anh thành một người đàn ông vũ phu. Anh uống say rồi hành hạ, đánh đập vợ con, rồi lại ân hận. Hộ rơi vào cái vòng luẩn quẩn, không lối thoát.

b. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác

- Ra mắt lần đầu năm 1943 – ra mắt trên tuần báo “Tiểu thuyết thứ 7”.

- Tác phầm này ngay từ khi mới ra đời nó đã là 1 truyện ngắn tiêu biểu cho mảng sáng tác về đề tài người trí thức của Nam Cao.

c. Ý nghĩa nhan đề

- Đời thừa là cuộc đời vô nghĩa, vô ích.

- Người lâm vào tình trạng sống thừa và ý thức được tình trạng ấy trong tác phẩm là Hộ, nhưng rộng hơn là người trí thức nghèo trong xã hội cũ. Điều đáng nói là không phải ai cũng đủ trung thực, tỉnh táo để ý thức được tình trạng sống thừa như thế. Người trí thức của Nam Cao cảm nhận và ý thức được nỗi đau sống cảnh đời thừa bởi họ luôn khao khát sống cho có ích, có ý nghĩa, có giá trị.

d. Giá trị nội dung

Bi kịch khủng khiếp hoàn toàn không có lối thoát của Hộ và dường như nó bao trùm thành bi kịch của cả đời anh - một "đời thừa". Anh đổ lỗi tất cả cho gia đình, nhưng tất cả là tại anh. Tuy vậy cũng cần nói thêm rằng, bi kịch ấy có nguyên nhân sâu xa chính từ xã hội đương thời. Chính xã hội ấy đã đẩy anh phải lo cơm áo gạo tiền. Nỗi lo sinh kế đã khiến anh phải từ bỏ giấc mộng văn chương. Và cũng chính những thất vọng ấy đã khiến anh chà đạp lên lẽ sống tình thương của mình. Nguyên nhân ất có lẽ anh không hiểu được - nguyên nhân của xã hội thực dân nửa phong kiến - nguyên nhân mà ngày ấy người ta đã nhận ra. Anh chưa tìm được lối thoát cho sự bế tắc. Đó là cái bế tắc của thời đại mà anh đang sống.

Nhưng đó phải chăng là nét hạn chế trong tư tưởng nhân đạo của Nam Cao? Ông đã biết đề cao những khát vọng đẹp của người trí thức, đã biết thông cảm với những nỗi khổ của họ nhưng chưa đề ra được lối thoát cho họ. Nhưng những tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo ấy đã là đáng quý, đáng trân trọng biết bao. Độc đáo, mới mẻ chính là ở lòng thương người - tình người nồng đượm bao la đằng sau lỗi viết văn tưởng như dửng dưng lãnh đạm.

doi-thua-nam-cao.png
Phân tích truyện ngắn Đời thừa (Nam Cao)

e. Giá trị nghệ thuật

* Miêu tả tâm lí nhân vật

- Tâm lí nhân vật là một quá trình theo đúng logic của phép biện chứng tâm hồn: cảm giác mệt mỏi, khát nước sau cơn say -> cảm giác được chăm sóc của vợ (ấm nước đầy...) -> nỗi buồn nao nao -> đột nhiên hoảng sợ -> tỉnh rượu hẳn, nhận ra sự có mặt của vợ trong dáng nằm thật là khó nhọc và khổ não -> bùi ngùi ngắm vợ, ái ngại và thương xót -> tự vấn về bổn phận và tình thương, tư cách làm chồng làm cha -> khóc nức nở.

- Nam Cao không đứng ngoài quan sát cảm nhận miêu tả mà ông đã nhập vai, hóa thân vào nhân vật để cất tiếng nói bên trong. Điều này thể hiện một cách hiệu quả bằng cách cho nhân vật độc thoại nội tâm bằng giọng tự vấn đầy thổn thức, ân hận , đau đớn, bằng lời văn dày đặc những câu hỏi câu cảm...

* Nghệ thuật kể chuyện

- Đan xen giữa hiện tại và quá khức: Thời gian trần thuật và thời gian được trần thuật. Thời gian trần thuật chỉ khoảng một ngày (sáng hôm trước -> sáng hôm sau), thời gian được trần thuật là cả quãng đời dài (từ lúc còn là gã tuổi say mê lí tưởng -> khi tha hóa, một con người đáng yêu đã chẳng là mình nữa). Sự đan xen hiện tại và quá khứ một cách khéo léo qua các đoạn kể, hồi tưởng và độc thoại nội tâm tạo tính hàm súc và thể hiện sắc nét tính cách nhân vật: đau xót, khốn khổ không lối thoát.

II. Dàn ý phân tích tác phẩm Đời thừa - Nam Cao

A. Mở bài

- Truyện ngắn Đời thừa đăng trên tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy số 409 ra ngày 4/12/1943.

- Tác giả cảm thông và xót xa đối với tấn bi kịch tinh thần đau đớn, dai dẳng của người trí thức nghèo có tài năng, có tâm huyết, giàu lòng nhân đạo trong xã hội thực dân phong kiến. Đồng thời lên án gay gắt cái xã hội ngột ngạt bóp chết mọi mơ ước, tước đi cuộc sống chân chính của con người, đã đầu độc tâm hồn con người và mối quan hệ vốn đẹp đẽ giữa người và người.

B. Thân bài

* Nhân vật từ

- Ngoại hình: Nam Cao rất ít tả ngoại hình của nhân vật Từ. Phần cuối truyện, chỉ có một vài nét vẽ, tác giả tả Từ - một người đàn bà bạc: Da mặt xanh nhợt, môi nhợt nhạt, mi mắt hơi tim tím, mắt có quầng, má hơi hóp lại... Cái bàn tay lủng củng rặt những xương, cổ tay mỏng mảnh. Làn da mỏng, xanh trong, xanh lọc... Đó là hình ảnh một thiếu phụ nhiều lo lắng, thiếu thốn về mặt vật chất. Vẻ đẹp thời con gái đã tàn phai.

- Lỡ làng vì bị tình phụ. Cảnh Từ ôm con sau ngày đẻ, nhịn đói, mẹ già bị mù, cả mẹ lẫn con chỉ có một cách là khóc cho đến khi nào bao nhiêu thịt đều chảy ra thành nước mắt hết, để rồi cùng chết cả.

- Từ là hội tụ bao đức tính tốt đẹp của người vợ yêu chồng, người mẹ thương con. Dịu dàng, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh. Từ hiểu rằng Hộ khổ là vì Từ. Từ chén nước đến cử chỉ lời nói, chị đã dành cho Hộ bao tình thương yêu. Bị Hộ say rượu hắt hủi, đánh đuổi, nhưng Từ vẫn yêu chồng, không thể ôm con bỏ đi được, vì ngoài tình yêu, Hộ còn là ân nhân của chị. Từ yêu chồng bằng một thứ tình yêu rất gần với tình của một con chó đối với người nuôi.

- Phần cuối truyện, Từ ôm lấy cổ chồng nói: Không!... Anh chỉ là một người khổ sở... Chính vì em mà anh khổ...". Nàng ru con qua dòng nước mắt... cho thấy Từ là một người bạc mệnh, nhưng bản tính rất dịu dàng, giàu đức hi sinh.

- Nam Cao với trái tim nhân đạo đã miêu tả sâu sắc tâm hồn nhân hậu của Từ, cảm thông với nỗi đau của Từ, của bao người phụ nữ bạc mệnh và đau khổ trong xã hội cũ. Tiếng ru con của Từ là tiếng thương, là nỗi đau buồn về cuộc đời bi kịch của người phụ nữ: sống trong tình yêu mà ít có hạnh phúc!

* Nhân vật Hộ

- Họ là một con người giàu tình thương

+ Hộ đã hành động một cách cao đẹp là nuôi Từ, nuôi mẹ già, con dại cho Từ. Lúc mẹ Từ qua đời, Hộ đã đứng ra làm ma, rất chu đáo. Hộ nhận Từ làm vợ, nhận làm bố cho đứa con thơ... Như một nghĩa cử cao đẹp, Hộ đã cứu vớt mẹ con Từ. Biết bao nhiêu là ân nghĩa. Hộ sống vì tình thương vì sự bao dung chở che, như anh quan niệm: Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình.

+ Hộ là một người chồng thật sự yêu thương vợ con. Anh tính chuyện Phí đi một vài năm để kiếm tiền lo cho Từ một cái vốn làm ăn. Những lúc Từ ốm, Hộ lo xanh mặt và thức suốt đêm. Chỉ xa các con vài ngày, lúc gặp lại chúng, Hộ cảm động đến ứa nước mắt, hôn hít chúng vồ vập. Có lúc từ mồng mười đến cuối tháng, Hộ không dám bước chân ra khỏi nhà để bớt chi tiêu, hắn thương vợ con có bữa phải nhịn cơm ăn cháo, sắp nhận được tiền nhuận bút, Hộ thương đàn con thơ cả tháng đói khát khổ sở, hôm nay có tiền cũng nên cho chúng nó một bữa ăn ra hồn.

+ Hộ là một nhà văn nhân đạo chủ nghĩa. Với Hộ thì trang văn là cuộc đời, thấm tình đời phải chứa đựng được một cúi gi lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình. Nó làm cho người gần người hơn. Đó là một quan niệm rất tiến bộ, quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh. Nhà văn phải vì con người, vì hạnh phúc của con người. Qua đó, ta thấy, là con người xã hội, là nhà văn, là người chồng người cha, trong con người và tâm hồn Hộ đều tỏa sáng một tình nhân ái bao la. Anh đã sống và hành động, vun đắp cho hạnh phúc của con người.

- Họ là một nhà văn trải qua một bi kích tinh thần đau đớn, dai dẳng

+ Hộ có tài, lúc đầu, anh viết rất thận trọng. Mang một hoài bão lớn, anh băn khoăn nghĩ đển một tác phẩm nó sẽ làm mờ các tác phẩm cùng ra một thời. Từ khi phải lo kiếm tiền nuôi vợ con, Hộ cho in cuốn văn vội, anh xấu hổ khi đọc lại văn mình, tự xỉ vả mình là một thằng khốn nạn, là một kẻ bất lương. Trước kia tin tưởng bao nhiêu thì nay đau đớn thất vọng bấy nhiêu! Hắn buồn lắc đầu tự bảo: Thôi thế là hết! Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi.

+ Văn chương đối với Hộ như là một cái nghiệp. Nợ áo cơm ghì sát đất nhưng anh vẫn mê văn. Hộ nói, đọc được một câu văn hay mà hiểu được thì ăn một món ăn ngon đến đâu cũng không thích bằng. Hộ điên người lên phải xoay tiền nhưng hắn bảo khổ thì khổ thật, nhưng thử có người giàu bạc vạn nào thuận đổi lẩy cái địa vị của tôi, chưa chắc tôi đã đổi.

+ Mất dần cuộc đời hồn nhiên trong sáng, có lúc chan chứa nước mắt, mặt hầm hầm. Hắn đọc sách mà trông cũng dữ tợn: đôi lông mày rậm…châu đầu lại với nhau... cái mặt hốc hác...

+ Hộ đã tìm đến rượu để giải sầu, càng ngày hắn càng lún sâu vào bi kị say rượu và đối xử vũ phu với vợ con. Vốn rất yêu vợ con nhưng có hôm say rượu hắn gườm gườm đôi mắt, đòi vật một nhát cho chết cả. Tỉnh rượu lại bẽn lẽn xin lỗi Từ, hứa chừa rượu, được một thời gian ngắn, lại say, lại đánh vợ, những trò vừa buồn cười, vừa đáng sợ như lần trước. Trở thành bê tha hắn ngủ một nửa ngày từ khi còn ở dọc đường, về đến nhà thì đổ xuống giường như một khúc gỗ...ngủ say như chết! Có điều lạ, Hộ rất tỉnh khi anh bàn luận văn chương, rất biết điều và ân hận thực sự lúc tỉnh rượu. Hắn nhìn Từ xanh xao mà thương hại, nắm lấy tay Từ mà khóc, nước mắt hẳn bật ra nhưu một quả chanh mà người ta bóp mạnh. Và hắn khóc… Ôi chao! Hắn khóc! Hắn khóc nức nở… Rồi hắn tự lên án mình chỉ là một thằng… khốn nạn!

+ Và câu hát ru còn thấm lệ của Từ như tô đậm thêm bi kịch của Hộ, của hai vợ chồng. Nỗi đau ấy được cực tả qua câu hát cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thương. Tiếng khóc của Hộ, tiếng khóc của Từ mang ý nghĩa tố cáo cái xã hội tàn ác đã cướp đi mọi ước mơ, đã đày đọa cuộc sống của mỗi gai đình, đã đầu độc tâm hồn con người và làm méo mó mối quan hệ vốn tốt đẹp giữa người với người.

+ Cũng qua nhân vật Hộ, Nam Cao đã thể hiện ngòi bút hiện thực vừa tỉnh táo, vừa sắc lạnh, vừa nặng trĩu suy nghĩ đằm thắm yêu thương. Nghệ thuật cho người đọc vô cùng thấm thía về bi kịch của một tri thức nghèo, của một nhà văn nghèo trong xã hội cũ.

C. Kết bài

Truyện Đời thừa là một thành công tiêu biểu của Nam Cao viết về đề tài người trí thức nghèo trước Cách mạng. Truyện đã hàm chứa một tính nhân đạo và có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc. Truyện Đời thừa đến Độ trong Đôi mắt cũng là một nhịp đời của Nam Cao đến với Cách mạng và kháng chiến.

III. Viết đoạn văn ngắn phân tích tác phẩm Đời thừa - Nam Cao

1.Văn sĩ hộ mang nhiều nét tiêu biểu hay cũng như dở của tính cách một trí thức nghệ sĩ có tâm huyết, tài năng. Em hãy chứng minh.

* Nét hay

Trước hết Hộ là một nhà văn tự trọng, có ý thức sâu sắc về nghề văn, nên viết thận trọng. Vì Hộ quan niệm rằng sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện. Cho nên hắn đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán.

Là một nhà văn có ý thức sáng tạo, Hộ cho rằng văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có. Cho nên anh đã từng ôm ấp một hoài bãi lớn về sự nghiệp văn chương, và vì nó, Hộ có thể hi sinh tất cả. “Nghệ thuật là tất cả” không phải sa vào quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật”, thoát li đời sống. Mà đây là chính là niềm say mê quên mình vì lí tưởng nghệ thuật, vì sự nghiệp văn chương chân chính thấm đậm tình nhân đạo, như niềm mơ ước của Hộ: “Cả một đời tôi, tôi sẽ chỉ viết một quyển thôi, nhưng quyển đó sẽ ăn giải Nobel...”. Đó chính là một tác phẩm văn chương “chứa đựng một cái gì to lớn, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình... Nó làm cho người gần người hơn”.

Đây cũng không phải là sự thèm khát hư danh, mà xét cho cùng, chính là niềm khao khát tự khẳng định trước một cuộc đời của một cá nhân có ý thức về mình, về giá trị cuộc sống, không muốn sống cuộc đời mờ nhạt, bị lãng quên.

* Nét dở

Rất say mê văn chương nhưng Hộ cũng dễ cao hứng, bốc đồng vì chuyện văn chương. Sau một lần lãnh tiền ở tòa báo, định mua thức ăn ngon một bữa cho lũ con đói khát, nhưng khi nghe bàn về một tác phẩm văn chương, Hộ bốc lên, vào quán rượu cùng bạn bè, tiêu sạch tiền, say sưa rồi hối hận...

Hộ vừa chủ quan, kiêu ngạo, vừa bi quan, thiếu tự tin: Còn gì buồn hơn chính mình lại chán mình? Khi chán nản, hắn thừ mặt ra. như một kẻ phải đi đày (...) “Thôi thế là hết! Ta đã hỏng đứt rồi!”.

2. Phân tích nghệ thuật đặc sắc trong Đời thừa của Nam Cao

Nam Cao (1917-1951) là một trong những tác giả nổi bật nhất của trào lưu văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1940-1945. Ông trở thành biểu tượng của văn hóa Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Những tác phẩm của ông, như Đời thừa, là những kiệt tác văn học thể hiện sự lên án về xã hội vô nhân tính, làm biến dạng nhân cách con người, đặc biệt là đối với nhóm nông dân và tri thức tiểu tư sản. Nhân vật Hộ trong Đời thừa trở thành biểu tượng của bi kịch của giới tri thức thời kỳ đó.

Đời thừa không chỉ là một tác phẩm văn học nổi bật mà còn là tác phẩm cốt lõi trong triết lý văn học của Nam Cao. Nó là nơi tập trung những quan niệm về nghệ thuật và nhân sinh mà tác giả đã thể hiện như một tuyên ngôn cho văn hóa Việt Nam. Tác phẩm không chỉ là biểu tượng của nghệ thuật mà còn là bức tranh sống động về cuộc sống và những khó khăn của các nghệ sĩ trong xã hội. Điều này thể hiện rõ qua những thước phim nghệ thuật đặc sắc và là nét đặc trưng nhất của Nam Cao, một tri thức đích thực.

Về mặt nghệ thuật, Đời thừa đặc trưng bởi tính chân thực, đời thường. Không phải là câu chuyện vĩ đại, nó đưa ta vào thế giới bình dị và tìm hiểu những điều tưởng chừng tầm thường nhưng lại mang đến bi kịch cho nhân vật. Truyện kể về một chàng trai bình thường, có hoài bão và đam mê văn học, nhưng cuộc sống gia đình khó khăn buộc anh phải từ bỏ lý tưởng ban đầu. Câu chuyện thể hiện sự đau lòng và mất mát về nhân cách.

Mặc dù tập trung vào chủ đề hiện thực và chỉ trích xã hội vô nhân tính, nhân vật Hộ trong Đời thừa thực sự là biểu tượng của tư tưởng của Nam Cao. Tác phẩm không phải là câu chuyện ngắn thông thường, mà là một luận đề sâu sắc. Hộ, nhân vật chính, thường xuyên tỏ ý kiến trong văn chương, những quan điểm đó đều sâu sắc và thấm thía. Nam Cao tập trung mô tả tâm lý nhân vật, vì ông tin rằng suy nghĩ bên trong là nền tảng cho hành động bên ngoài. Đời thừa, giọng điệu chua chát và buồn bã, thể hiện sự đau lòng và mất mát về nhân cách.

Trong mọi phân đoạn, giọng điệu của tác phẩm đều mang chất chua cay và buồn bã. Ngay cả trong những đoạn vui vẻ, giọng điệu đó vẫn làm nổi bật nỗi niềm riêng tư của từng nhân vật, đặc biệt là Hộ, người sống trong sự giằng xé của lương tâm.

Điều đặc biệt nhất ở Đời thừa là quan điểm nghệ thuật của Nam Cao về nhân sinh. Tác phẩm là biểu tượng của giá trị nhân văn, lên án xã hội vô nhân tính và khám phá bước đường bi kịch của con người. Nam Cao đề xuất giải pháp là thay đổi xã hội, chỉ có xã hội nhân đạo mới có thể khuyến khích trí thức tạo ra những sản phẩm có giá trị cho xã hội.

Thấu hiểu qua nhân vật Hộ, Nam Cao truyền đạt quan điểm nghệ thuật mới mẻ, đậm chất cá nhân. Đời thừa là sự hiện thân của tư tưởng của Nam Cao, nhà văn trí thức, về hiện thực cuộc sống và số phận của con người trong xã hội vô nhân tính. Tác phẩm này là minh chứng cho tầm vóc lớn của một nhà văn, một tâm hồn cao quý và nhân đạo.

IV. Danh sách đề thi phân tích truyện ngắn Đời thừa - Nam Cao

1. Đời thừa - một tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám.

Trong cuộc đời cầm bút của mình, Nam Cao luôn suy nghĩ, trăn trở về sống và viết. Điều này thể hiện rõ nét trong tác phẩm của ông suốt từ trước đến sau Cách mạng, trở thành hệ thống quan điểm sáng tác của ông. Nhiều tác phẩm của ông được coi là tuyên ngôn nghệ thuật với những quan điểm tiến bộ và sâu sắc. Trong đó, Đời thừa là một tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám.

Nói đến tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao trước Cách mạng, người ta thường nghĩ đến Trăng sáng. Song quan điểm nghệ thuật được Nam Cao phát biểu thành hệ thống và có chiều sâu tư tưởng thì phải nói đến Đời thừa chứ không phải Trăng sáng.

Nếu như trong Trăng sáng, nhà văn phê phán nghệ thuật lãng mạn thoát li, trốn tránh trách nhiệm, trốn tránh cuộc đời, ông coi đó là ánh trăng lừa dối, thì đến Đời thừa ông còn phê phán cả lối tả chân hời hợt, chỉ tả được cái bề ngoài xã hội. Với quan điểm nghệ thuật chân chính phải trở về với cuộc đời thực. Hộ (người phát ngôn của Nam Cao) đã có những nhận xét đích đáng về cuốn Đường về. Cuốn “Đường về” chỉ có giá trị địa phương thôi, các anh có hiểu không? Người ta dịch nó vì muốn biết phong tục của mọi nơi. Nó chỉ tả được cái bề ngoài của xã hội. Tôi cho là xoàng lắm! Như vậy, Nam Cao không chỉ đối lập văn chương giả dối với văn chương chân thực mà còn phân biệt cái chân thực bề ngoài với chân thực có chiều sâu trong nghệ thuật. Điều này thể hiện tư tưởng mới mẻ và sâu sắc của ông.

Không tán thành loại sáng tác chỉ tả được cái bề ngoài của xã hội, Nam Cao cho rằng một tác phẩm thật giá trị thì phải vượt lên trên tất cả các bờ cõi vá giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình... nó làm cho người gần người hơn. Đây chính là điều cốt lõi làm nên giá trị đích thực của một nền văn học lớn. Trong lúc xã hội thuộc địa nửa phong kiến đầy hỗn loạn, văn chương thật - giả lẫn lộn, nha văn bị cơm áo ghì sát đất, vậy mà vẫn có một Nam Cao trong sáng vô ngần. trung thực vô ngần (Tô Hoài) và đầy tâm huyết với nghiệp văn, thật đáng quý biết bao. Nhiệt tình, tâm huyết và trách nhiệm của người cầm bút đã khiến ông có những suy nghĩ nghiêm túc đầy tiến bộ về nghệ thuật đích thực. Văn chương của ông hướng tới lòng yêu thương con người, tình bác ái, sự công bằng. Nó là mục đích cao cả là giúp cho người gần người hơn. Thì ra sứ mệnh mà cuộc sống giao cho nhà văn, giao cho tác phẩm của ông thật lớn lao. Nhà văn phải làm cho con người gần gũi nhau hơn, yêu thương nhau hơn. Đó cũng chính là nghĩa văn học là nhân học vĩ đại trong tư tưởng Nam Cao.

Và sự thực Nam Cao cũng đã làm được điều mình nói. Trong các tác phẩm của mình, không ít lần ông vẽ nên những cảnh tượng xót thương, đau lòng để rồi thổi lên trong lòng người đọc sự xót xa, nuôi tiếc, sự yêu thương, căm giận cảm thông. Ta xót thương cho cái chết của Lão Hạc bao nhiêu thì ngậm ngùi cho đám cưới của Dần bấy nhiêu, đau đớn, day dứt khôn nguôi cho cái chết của Chí Phèo trên con đường trở lại hoàn lương bao nhiêu thì căm ghét xã hội thuộc địa phong kiến vô nhân đạo bấy nhiêu và cảm thông vô cùng với những trí thức như Điền (Trăng sáng), Hộ (Đời thừa) những con người có ước mơ hoài bão lớn nhưng lại bị áo cơm ghì sát đất... Điều này chỉ có được khi trong thẳm sâu trái tim của người viết có tình yêu thương trân trọng con người vô hạn. Nỗi niềm day dứt về con người, tình yêu thương ấy qua quá trình thai nghén đã trào dâng lên ngọn bút để viết nên những tác phẩm bất hủ của lòng nhân đạo.

Cũng qua nhân vật Hộ, Nam Cao đã phát biểu rất hay về yêu cầu tìm tòi sáng tạo của nghề văn và lương tâm của người cầm bút: Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có.

Trước hết, Nam Cao lên tiếng phủ nhận những nhà văn được gọi là những người thợ khéo tay - những người chỉ biết bắt chước người khác. Đó là những nhà văn chỉ chuyên chú gọt đẽo ngôn từ tạo nên thứ văn chương đơn giản là văn chương dập khuôn. Thực chất đó chỉ là thứ văn chương nông cạn, hời hợt, lặp lại, sáo mòn theo một khuôn mẫu đã có trước đó. Bản chất đích thực của văn chương là sự sáng tạo: Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu tìm tòi, khơi nhưng nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có. Văn chương không cho phép bất cứ sự lặp lại nào. Nghệ thuật là một quá trình chọn lọc khắc nghiệt. Vì vậy, muốn tác phẩm của mình không bị đào thải thì nhà văn phải có quá trình tìm tòi, sáng tạo. Con đường lao động nghệ thuật của các nhà văn là con đường lao động chân chính, lao động thực thụ.

Khi Nam Cao đòi hỏi mỗi nhà văn phải khơi những nguồn chưa ai khơi là ông muốn nhà văn phải tìm đến những gì chưa ai phát hiện ra. Cuộc đời dường như là một dòng sông lớn. Nơi ấy đã có những mạch nguồn hiện hữu, nhưng nơi ấy vẫn hãy còn rất nhiều những mạch nguồn tiềm ẩn mà nhiệm vụ của nhà văn là phải khám phá những mạch nguồn này. Đó quả là một nhiệm vụ không dễ dang gì đòi hỏi ở nhà văn tài năng và một tinh thần lao động thực sự - một sự cống hiến và tâm huyết nghề nghiệp.

Tìm tòi ra những chân lí nghệ thuật này hẳn Nam Cao cũng đã trải qua quá trình suy nghĩ, trăn trở của một nhà nghệ thuật tâm huyết. Tư tưởng ấy trở thành chân lí nghệ thuật nói chung và chân lí trong văn chương nói riêng cho mọi thời đại ở mọi nền văn học.

Cuộc đời lao động của Nam Cao là tấm gương sáng cho những nỗ lực tìm tòi, khám phá giàu giá trị sống mãi cùng thời gian: Chí Phèo, Đời thường Trong hiện thực mới mẻ nhất mà Nam Cao khám phá đó là sự tha hóa về nhân phẩm: Hình ảnh người lao động bị xã hội phong kiến thực dân hủy hoại cả nhân hình, nhân tính (Chí Phèo), người trí thức có hoài bão lớn, có ý thức về lẽ sống tình thương nhưng lại vi phạm vào chính những lẽ sống tình thương đó và cẩu thả, đê tiện trong nghề nghiệp (Hộ - Đời thừa)... Đây là điểm mới mà các nhà văn hiện thực trước đó mới chỉ ra được sự bần cùng, quá trình đói cơm rách áo của người nông dân, người trí thức mà thôi. Đồng thời, một điển hình mới mẻ, tiến bộ nữa trong sáng tác của Nam Cao là thấy được quá trình thức tỉnh lương tâm làm người của Chí Phèo, quá trình thức tỉnh nhận ra mình là một người thừa, một kẻ khốn nạn ở Hộ... Ngoài ra, nếu như trước đây, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố đem đến cho chúng ta những nhân vật thiên về hành động, những cuộc đấu tranh diễn ra hàng ngày trên bề mặt cuộc sống thì Nam Cao lại chủ động đi vào nội tâm nhân vật với rất nhiều vui buồn, đau đớn, xót xa, ân hận. Cả người nông dân và người trí thức của Nam Cao đều rất giàu nội tâm...

Như vậy Nam Cao không những có quan điểm chân chính, ông còn thực hiện những quan điểm ấy một cách xuất sắc. Điều đó làm nên sự vĩ đại của nhà văn Nam Cao - một nghệ sĩ lớn - một trái tim lớn. Và cũng cần khẳng định rằng hơn bất cứ ở đâu, truyện ngắn Đời thừa cho thấy đầy đủ nhất những quan điểm nghệ thuật sâu sắc, tiến bộ của Nam Cao.

2. Bi kịch tinh thần của người tri thức trong truyện ngắn Đời thừa của Nam Cao.

Tôi đã từng đọc những truyện ngắn trữ tình, đầy chất thơ của Thạch Lam khi ông viết Cô hàng xén, Tối ba mươi, Dưới bóng hoàng lan... để hiểu vì sao người ta coi trang văn của ông là những trang thơ ngọt ngào, đằm thắm, tinh tế và dịu nhẹ. Tôi cũng từng đọc tùy bút Nguyễn Tuân khi ông viết Tờ hoa, Người lái đò sông Đà... để biết do đâu người ta nhận xét trang văn của Nguyễn Tuân là những trang hoa và mĩ từ được sử dụng một cách khéo léo và tinh tế. Thế nhưng, khi đọc truyện ngắn của Nam Cao, chỉ với Đời thừa thôi cũng đủ hiểu vì sao Nam Cao được coi là nhà văn hiện thực xuất sắc với nghệ thuật phân tích tâm lí tài ba, và trang văn của ông là những trang đời có sức sông, sức khái quá mãnh liệt.

Tất nhiên, hẳn có nhiều người còn thắc mắc và hoài nghi. Bởi lẽ, cái hiện thực mà chúng ta đang nói ở đây, tức là trong sáng tác của Nam Cao không chỉ là hiện thực của một con người, mà cao hơn, đó là hiện thực của một thời, một giai đoạn, một tầng lớp, một giai cấp trong xã hội. Nếu Chí Phèo là tác phẩm xuất sắc viết về đề tài người nông dân Việt Nam trước Cách mạng thì Đời thừa lại đứng ở vị thế của một tác phẩm thành công viết về đề tài người trí thức. Điều đặc biệt là người tri thức trong sáng tác của Nam Cao không phải chỉ là con người với đầy đủ cái tốt và cái xấu, cái cao thượng và cái thấp hèn. Hai mặt ấy đang vật lộn, dằng xé, day dứt, ăn năn để hoàn thiện, và làm nên những bản hay nhất của tác phẩm.

Có người cho rằng: Viết về đề tài người trí thức là Nam Cao đang tự bộc bạch chính mình, cho nên cùng dễ viết cho hay. Tuy nhiên, nếu chỉ viết về mình mà để viết và viết dễ hay thì hẳn đã có nhiều trang văn nổi trội. Ở đây, Nam Cao đang viết về mình, về hiện thực của giới mình với tất cả tình cảnh nghèo khó và đau đớn. Đặc biệt, nhà văn đi sâu vào những bi kịch tinh thần của họ, qua đó đặt ra những vấn đề có ý nghĩa xã hội to lớn, vượt khỏi phạm vi đề tài ban đầu. Hơn thế nữa viết về hiện thực của bản thân mình, của giới mình mà viết cho hay thì thật là không dễ. Con người ta chẳng ai muốn tự vạch ra cái xấu của mình, cũng chẳng ai muốn người khác nói đến cái xấu của mình. Thế nên, để viết cho hay, Nam Cao cần chân thực, và để chân thực, trước hết bản thân ông phải luôn luôn trăn trở, giày vò giữa sống và viết, phải là người hiểu được những biến thái tinh vi giằng co, dai dẳng trong tâm hồn con người đang ở trạng thái ăn năn để hướng tới cái tốt đẹp, cái hoàn thiện và cũng phải là người có tài năng phi thường, có lòng trung thực vô ngần mới diễn tả được một cách xuất sắc tất cả những điều đó.

Từ ngẩng lên nhìn Hộ ba lân. Ba lần, Từ muốn nói nhưng lại không dám nói. Hắn đọc chăm chú quá... Từ thấy sợ. Đời thừa của Nam Cao đã mở đầu như thế. Một cách mở đầu không nhẹ, không thơ mà ngập ngừng ẩn chứa những điều sẽ xảy đến tiếp sau. Hộ là một trí thức, và lại là một nhà văn. Cách lựa chọn nghề nghiệp cho nhân vật của Nam Cao cũng thật lạ, nhưng hẳn không phải là ngẫu nhiên. Có lẽ vì thế mà Nguyễn Minh Châu đã nói về Nam Cao khi viết về người trí thức là càng nọc mình ra trên trang giấy để mà hành hạ, đày ải, giày vò. Cho nên, văn Nam Cao đâu còn là văn nữa mà nó là tiếng kêu, tiếng rên của một tâm hồn bị cào xé. Nó là tâm, là huyết, là máu lệ hóa thân thành chữ nghĩa (Chu Văn Sơn).

Hộ là một nhà văn! Cũng như Điền trong Trăng sáng, Hộ có một phần là hiện thân của Nam Cao, là người đưa ra những tuyên ngôn nghệ thuật về nghề văn của người cha khai sinh ra Hộ. Tuy nhiên, không chỉ có thế ngòi bút tỉnh táo, sắc lạnh của Nam Cao còn phản ánh những vật vã, quằn quại của một con người trong cuộc sống hàng ngày, là tấn bi kịch tinh thần có thể huy hoại cả những đời người, đánh hỏng cả những nhân cách vốn trong trẻo, cao khiết. Bi kịch của Đời thừa, của Hộ cũng như những người trí thức chính là tấn bi kịch ấy. Hộ cứ bị giết chết những ước mơ đẹp nhất, cứ bị hủy diệt dần những tâm hồn tốt nhất. Bi kịch xảy ra với Hộ do vậy, không chỉ đơn thuần là bi kịch của một nhà văn mà cao hơn đó là bi kịch của một con người, bi kịch ấy cùng sóng đôi trong tâm hồn người nghệ sĩ để Hộ phải sống một cuộc Đời thừa.

Bi kịch tinh thần đầu tiên xảy đến với Hộ là bi kịch của một nhà văn. Trước kia, Hộ là một ngòi bút kiêu hãnh đặt nghệ thuật cao hơn tất cả, dám xả thân cho lí tưởng có ý chí, có hoài bão lớn về văn nghiệp và coi sáng tạo là nhân cách của người cầm bút. Nghĩa là một nghệ sĩ có quan niệm khắt khe về nghề nghiệp, có đạo đức nghề nghiệp, có ý chí lớn về nghề nghiệp và tâm huyết với đời. Đó là thời kì Hộ đang bay bổng trên đôi cánh của khát vọng tới những viễn tưởng đầy hứa hẹn. Ấy là khi Hộ mới chỉ viết chứ chưa thực sống. Giờ đây khi ghép mình vào đời Từ, phải gánh cả một gia đình, cuộc sống cơm áo vắt kiệt, đã làm tiêu tan bút lực của Hộ. Hộ đã từng coi thường đồng tiền, khinh những lo lắng tủn mủn, tẹp nhẹp về vật chất, giờ đây đồng tiền đang làm Hộ khốn đốn, đồng tiền đã biến Hộ thành tù nhân, thành nạn nhân từ lúc nào. Muốn nuôi sống vợ con Hộ cần phải có tiền. Muốn có tiền Hộ cần phải viết - viết nhiều, viết nhanh và viết ẩu. Đây có thế coi là cái mốc đầu tiên đánh dấu bi kịch của Hộ, là nguyên nhân khiến Hộ tự xỉ vả mình. Văn chương vốn được Hộ xem như cáo Đạo thiêng liêng của kẻ viết thì giờ đây chính Hộ lại biến nó thành cái cần câu cơm. Sáng tạo được xem là tư cách thiêng liêng của người nghệ sĩ thì giờ đây đã bị lối viết lần hồi kiếm ăn biến thành trò khéo tay, quen tay tầm thường. Hộ đã từng coi khinh những tác phẩm viết một cái gì rất nhẹ, rất nông để người đọc quên ngay sau đó, thế nhưng giờ đây chính Hộ lại đang làm ra những tác phẩm như thế. Hộ đang trở thành chính những gì mà anh căm ghét, lên án, ghê tởm. Hộ đang chà đạp lên những gì mình đã tôn thờ. Hộ coi mình là một kẻ đê tiện bởi: Sự cẩu thả trong bất kì nghề nào cũng là bất lương rồi nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện. Hộ thấy mình là một. kẻ vô ích, một người thừa. Anh tự ăn năn, buồn chán và cảm thấy nhục nhã ê chề khi chính mình đã phản lại nguyên tắc và lương tâm của một người cầm bút. Giả sử Hộ không ăn năn, giả sử Hộ coi chuyện đó là bình thường và tìm ra lí do để li giải cho hành động đó của mình là vì gia đình thì hẳn lương tâm Hộ đã không bị cắn rứt và Hộ cũng không rơi vào bi kịch. Người ta chỉ sa vào bi kịch khi ý thức được về bi kịch của mình. Và Hộ là một nhà văn chân chính, một nhà văn trẻ tuổi có lí tưởng không ăn năn, không rơi vào bi kịch thì bản thân tác phẩm của Nam Cao cũng không có giá trị và ý nghĩa cho đến hôm nay.

Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở đó thì bút lực của Nam Cao cũng chưa có gì đáng bàn và bi kịch nghề văn của người trí thức cũng chỉ là những điều vốn dĩ đã quen. Cái độc đáo và khác biệt của Nam Cao khi viết về tấn bi kịch tinh thần của người trí thức là ở chỗ ông đã cho người đọc thấy được bộ mặt tinh thần của người trí thức từ mọi góc cạnh của đời sống, bởi trước khi là một nhà văn, nhà nghệ sĩ họ phải là những con người. Mà không phải con người đóng khung, tĩnh tại mà là con người trong đời sống đa dạng, phức tạp đầy mâu thuẫn. Phải chăng, đó chính là nguồn gốc xuất phát điểm để cuộc vật lộn không nhân nhượng giữa cái tốt và cái ác, cái cao cả và cái thấp hèn: lòng vị tha, cao thượng và sự vị kí.... Luôn luôn giằng co trong tâm thức của người nghệ sĩ và ở Đời thừa là của Hộ.

Để thoát khỏi bi kịch thứ nhất, bi kịch của một nhà văn Hộ đã tìm ra cứu cánh đó là sự hi sinh. Hi sinh vì vợ con, vì gia đình, và đó là niềm an ủi. Nêu Hộ quyết tâm đi theo lí tưởng để được là một nhà văn thì Hộ sẽ phải từ bỏ gia đình. Như thế Hộ sẽ không còn là một con người. Hi sinh lí tưởng vì gia đình, Hộ không còn là một nhà văn như Hộ trước kia, thế nhưng ít ra Hộ vẫn còn là một con người, con người với lẽ sống tình thương. Anh đã từng phản bác lại quan điểm của một triết gia phương Tây nào đó cho rằng Kẻ mạnh là kẻ giẫm đạp lên đôi vai của người khác và phải biết ác, biết tàn nhẫn để sống cho mạnh mẽ. Hộ cho rằng Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm đạp lên đôi vai của kẻ khác mà kẻ mạnh là kẻ giúp đỡ người khác trên đôi vai của chính mình. Thì chính Hộ đã thực hiện theo nguyên tắc ấy khi Hộ đưa tay ra cứu vớt cuộc đời Từ. Từ yêu chồng bằng một thứ tình yêu rất gần với tình của một con chó đối với người nuôi, bản thân Từ không chỉ yêu Hộ mà còn có cả sự biết ơn, lòng trung thành vì Hộ đã cưu mang mẹ con Từ giữa lúc Từ không còn thiết sống. Hành động ấy của Hộ đã cho thấy bản thân Hộ đã thực hiện theo đúng nguyên tắc tình thương của mình và giờ khi Hộ quyết định hi sinh lí tưởng cho gia đình cũng là điều dễ hiểu. Thế nhưng, khi lựa chọn tình thương gia đình Hộ lại rơi vào bi kịch thứ hai, bi kịch của một con người. Và lần này, cả hai bi kịch cùng sóng đôi trong tâm hồn Hộ đã được Nam Cao lách ngòi bút vào một nơi rất sâu, diễn tả rất tinh và rất trúng.

Hộ những tưởng hi sinh lí tưởng vì gia đình thì anh sẽ được sống yên thân và ổn định. Nào ngờ, nghiệp văn chương không tha cho Hộ. Nó cứ đeo đẳng và sống dậy trong anh bất cứ lúc nào khi có thời cơ, khiến Hộ vi phạm cả vào lẽ sông tình thương của mình. Tôi chợt nhớ đến câu nói của Xan-tư-kốp Xê-đun khi ông khẳng định: Văn học nằm ngoài những định luật của băng hoại, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết. Có lẽ, vì vậy mà cũng dễ hiểu khi lí tưởng văn chương không tha cho Hộ. Ấy là khi gặp một bạn văn chương hay nghe tin về sự thành đạt của một đồng nghiệp. Cái mặc cảm sống vô ích, sống thừa, mặc cảm thua kém đã hành hạ Hộ một cách đau đớn. Hộ thấy ân hận, sầu đời. Ban đầu Hộ tìm đến rượu. Nhưng rượu không cứu rỗi được tâm hồn Hộ mà nó dần dần phá phách, hủy hoại tâm hồn Anh, Từ một ông Thánh nhân từ, đề cao lẽ sống tình thương Hộ đã trở thành một kẻ thô bạo và tàn nhẫn. Cơn giận của lí tưởng không được thực hiện đã bị Hộ mù quáng trút xuống đầu vợ con - những người mà chính Hộ đã nâng đỡ lên bằng tình yêu thương của mình. Và theo cái đà ấy, Hộ đã trở thành một kẻ tồi tệ, khốn nạn, một tên Chí Phèo tri thức chỉ biết chửi mắng và ăn vạ. Nhưng Hộ sa vào bi kịch cũng chính vì lẽ trong tâm hồn anh, cái phần người của lẽ sống tình thương vẫn còn tồn tại. Nó chỉ bị men rượu che khuất đi chứ không hề bị tiêu diệt. Chính vì vậy mà Hộ đã nhìn ra được tất cả sự thảm hại của con người mình.

Hộ khóc. Tiếng khóc của Hộ ở cuối tác phẩm là một sự thức tỉnh. Hộ đã khóc một cách cay đắng và chua xót. Khóc một cách bất lực và tuyệt vọng. Khóc khi nhận ra con người thực của chính mình đã rơi vào bi kịch ra sao. Lương tâm của Hộ đã trừng phạt anh một cách không khoan nhượng, không buông tha. Hộ nghẹn ngào: Anh... anh... chỉ là ... một thằng... khốn nạn. Có thể nói Nam Cao rất tỉnh táo khi viết và ông còn tỉnh táo hơn khi để cho nhân vật của mình khóc. Ai đó đã từng nói Nước mắt là một miếng kính biến hình vũ trụ. Và quả thực như vậy. Chí Phèo lần đầu tiên tỉnh sau bao nhiêu năm say, lòng mơ hồ buồn đã rưng rưng nước mắt. Giờ đến Hộ Người trí thức - nhà văn - con người ấy đã khóc khi nhận ra sự thảm hại của cuộc đời mình. Nam Cao đã để cho Từ nói với chồng: Không!... Anh chỉ là một người khổ sở. Đó cũng là lời bào chữa của Nam Cao bởi khổ sở đã biến con người thành khốn nạn.

Nam Cao kết thúc thiên truyện bàng tiếng ru ai oán. Thực chất, đó cũng là lời chất vấn xã hội. Ông lên tiếng kết án một xã hội thù địch với khát khao vươn lên, hoàn thiện của con người. Một xã hội không vun xới cho những ước mơ cao đẹp, không vun trồng cho những tâm tính tốt đẹp mà chí đánh hỏng những đời người, thì đó là một xã hội phi nhân tính. Hẳn cũng không phải là ngẫu nhiên khi Nam Cao đặt tên cho tác phẩm của mình là Đời thừa. Đó là những con người, những cuộc đời thừa, những tâm hồn đang bị giày xéo bởi những bi kịch không tìm được lối ra.

Viết về người trí thức có lẽ đương thời không ai viết được thành công như Nam Cao. Người đời đã dành tặng cho Nam Cao nhiều danh hiệu, nhiều mĩ từ, mĩ cảm khi đọc văn chương của ông. Song, tôi biết có một điều chắc chắn nhất là ông đã sống và viết theo đúng nguyên tắc của mình. Cuộc đời và văn phong của ông vì thế sẽ không bao giờ là cuộc đời thừa cả. Và như thế, Nam Cao cùng văn phẩm của ông mãi mãi sống trong lòng bạn đọc mọi thời đại.

3. Phân tích bi kịch tinh thần của nhân vật Hộ trong ‘Đời thừa’

Với Truyện Kiều của Nguyễn Du, người đọc đã thấy được bi kịch của kiếp “tài hoa bạc mệnh”, ở Chí Phèo của Nam Cao, là bi kịch của những khát khao lương thiện và cũng với Nam Cao ta gặp ở Đời thừa, tấn bi kịch tinh thần của người tri thức. Đời thừa bộc lộ rõ né “tư tưởng nhân đạo mới mẻ độc đáo của nhà văn lớn Nam Cao”.

Bi kịch tinh thần của nhân vật Hộ trong Đời thừa là bi kịch của một nhà văn – một trí thức giữa “cơn dâu bể” của cuộc đời, giữa một xã hội “chó đểu” (Vũ Trọng Phụng) – Nhà văn ấy giữ được phẩm giá của mình, ý thức được “thiên chức” cao cả của mình vậy mà đành bó tay bất lực.

Có thể nói, bi kịch đầu tiên trong tấn bi kịch tinh thần của cuộc đời Hộ là bi kịch về những giấc mộng văn chương. Hộ đã đặt văn chương lên trên hết: Văn chương dường như chính là khát vọng lớn nhất của đời anh. Anh muốn trở thành nhà văn chân chính – nhà văn viết “mở hồn đón lấy những vang vọng của đời”. Anh mơ ước đến một ngày anh sẽ viết được một tác phẩm lớn chung cho cả loài người. “Nó đề cập đến những vấn đề bức xúc của cả xã hội của cả nhân loại. Nó nói được những cái lớn lao, mạnh mẽ vừa đau đớn vừa phấn khởi, nó ca tụng lòng thương tình bác ái, sự công bình. Nó làm cho người gần người hơn”. Và nhất định anh sẽ giật giải Nobel! Đó là cuốn tiểu thuyết vĩ đại trong đời viết văn của anh. Nó sẽ làm rạng danh cho anh, cho nền văn học nước nhà. Đó quả là ước mơ chính đáng! Không phải người nghệ sĩ nào cũng khao khát như vậy khi bước vào con đường văn chương đầy khổ ải. Nhà văn phải biết xây ước mơ đẹp, và khát vọng của Hộ là khát vọng mạnh mẽ nhất và đẹp nhất. Hộ xác định đúng con đường cho mình – xác định tư tưởng cho mình.

Anh không sa vào những mơ mộng về nghệ thuật – nghệ thuật là “ánh trăng huyền ảo” (như Điền tron Trăng sáng). Anh thấy ánh trăng của nghệ thuật biết “làm đẹp cả những cảnh thật ra chỉ tầm thường xấu xa”. Quan điểm của anh đúng đắn lắm ! Tư tưởng của anh tiến bộ lắm ! Thế nhưng, trong sáng tác của mình anh đã viết những gì? Anh đã cho ra đời những sáng tác như thế nào? Anh không hướng nghệ thuật vào “thứ văn chương của bọn nhàn rỗi”; anh không biết để cho những cô gái áo xanh, áo đỏ tha thướt đọc, nhưng anh viết những gì từ khi anh bắt tay vào sáng tác?

Chao ôi! Anh đã viết những bài mà thậm chí khi đọc thấy tên của mình dưới bài viết, anh phải “đỏ mặt” xấu hổ. Anh giận dữ với chính anh. Anh khinh ghét những tác phẩm chỉ biết “gợi những tình cảm rất nhẹ rất nông bằng một thứ văn quá ư bằng phẳng dễ dãi” của chính mình. Dường như anh hoảng hốt, anh ngạc nhiên trước những bài viết của mình mới ra đời. Anh dằn vặt ghê gớm. Anh muốn nhưng có phải bao giờ ý muốn cũng thành viện thực đâu! Và đó chính là cái bi kịch của anh – bi kịch của một đời viết văn – bi kịch của người hiểu mình biết mình phải làm gì và đành lựa bút theo những điều mình chẳng hề muốn. Tôi cảm thấy cái đau đớn khủng khiếp tự chốn sâu thẳm của tâm hồn anh. Một cái gì đó bỗng chốc sụp đổ trong anh. Đấy chính là sự sụp đổ của một khát vọng đẹp và chân chính.

Anh phải ẩu như thế, bôi bác như thế cũng chính là vì những ràng buộc của “áo cơm”. Chao ôi! Giá như anh đựơc bay nhảy với những giấc mơ ấy!

Nhưng “cơm áo không đùa với khách thơ” (Xuân Diệu). Anh còn vợ và một đàn con nhỏ. Kiếp người với bao toan tính bộn bè níu kéo anh, không cho anh bay lên cùng giấc mộng của đời trai trẻ. Chính nỗi lo về tiền bạc đã buộc anh phải viết những bài trái với lương tâm và trách nhiệm. Trong đầu anh luôn quay cuồng với những tính toán về giá cả sinh hoạt, về bữa ăn hằng hàng… thì đâu còn chỗ cho văn chương nữa. Anh phải viết thật nhanh, thật nhiều để người vợ, đàn con và chính anh khỏi chết đói. Giá như anh cứ bỏ dứt cái mộng văn chương thì chắc đời anh chẳng khốn đốn đến thế ! Nhưng anh cần nghĩ tới tác phẩm của anh – các tác phẩm cho toàn nhân loại nên anh lại càng đau đớn ! Nước mắt anh không chảy nhưng đớn đau thì chồng chất tập trung hơn.

Chao ôi! “Đau đớn thay cho những kiếp sống muốn cất cánh bay cao nhưng lại bị áo cơm ghì sát đất” (Sống mòn). Đó chính là bi kịch của cuộc đời viết văn của anh – bi kịch của những giấc mộng văn chương chính là ở chỗ đó! Và tưởng như giấc mộng văn chương ấy chính là điều day dứt trong anh mãi không thôi.

Phải có những hiểu biết sâu sắc về tâm tư tình cảm con người thì Nam Cao mới viết được những dòng đầy cảm xúc như thế ! Dường như những day dứt trong cuộc đời ông – cuộc đời văn sĩ khổ ải – đã nhập vào những suy tư của Hộ, đã nhập vào tấn bi kịch tinh thần của Hộ. Có người nói, Hộ chính là hình ảnh của nhà văn Nam Cao thời kì trước Cách mạng. Tôi không hoàn toàn nghĩ thế. Nam Cao đã có thể bị cơm áo ghì chặt nhưng Nam Cao hơn hẳn Hộ; ông đã biết vượt lên trên những lo toan ấy để biến giấc mơ thành hiện thực. Ông đã viết những lời văn hay nhất, đẹp nhất về cuộc đời những kiếp lầm than và chắc chắn Nam Cao không phải đỏ mặt khi thấy tên mình sau những tác phẩm như Chí Phèo, Đời thừa… Bởi chính đó là giấc mơ văn chương nẩy nở.

Có thể tự tin mà nói rằng với Đời thừa, Nam Cao đã bộc lộ được tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo của mình khi viết những dòng bi kịch về Hộ. Kinh nghiệm và vốn sống đã cho ông viết những điều có sức rung động, lay chuyển lòng người đến thế! Đó chính là nhờ tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo của nhà văn Nam Cao. Nhân đạo ở sự ca ngợi khát vọng đẹp đẽ của Hộ, nhân đạo ở sự cảm thông sâu sắc với ngừoi tri thức… Và viết lên được những dòng như thé cũng là nhờ cái nhân đạo “mới mẻ” độc đáo của Nam Cao. Qua bi kịch tinh thần đầu tiên này của Hộ, Nam Cao đã bộc lộ được sự cảm thông, trân trọng bao kiếp người lao khổ trong cuộc đời này. Và phải chăng tư tưởng ấy đã kế thừa được của cha ông lòng nhân đạo truyền thống. Nhà văn không “phản ánh để phản ánh” mà sau những câu chữ tưởng như lãnh đạm, thờ ơ chính là một trái tim nhiệt thành, sôi nổi – một trái tim của tình nghĩa.

Bi kịch đầu tiên của cuộc đời nhà văn Hộ và đó cũng là nguyên nhân cho bi kịch thứ hai – bi kịch của một con người. Giấc mộng văn chương sụp đổ qua những bài viết ẩu. Thế nhưng Hộ vẫn còn chút an ủi. Đó chính là cuộc sống, sự tồn tại của vợ con anh. Anh chưa thực hiện đuợc khát vọng của mình – anh chưa viết được cuốn tiểu thuyết của đời anh, nhưng anh nuôi đủ vợ con. Anh đã kéo dài đươc sự tồn tại của gia đình mình. Và đó có thể gọi là việc làm hữu ích. Đó cũng là cái an ủi cho cái “đời thừa” của một nhà văn. Thế cũng đáng an ủi lắm chứ!

Vì anh là người đặt “tình thương” lên hàng đầu, lẽ sống của anh là tình thương. Tình thương là trên hết. Chính trong lời khẳng định về tác phẩm trong tương lai của mình, anh đã nói: tác phẩm có giá trị là tác phẩm “ca tụng lòng tương, tình bác ái, sự công bình”. Trong văn chương, anh muốn ca ngợi tình thương và trong cuộc đời thực, tình thương là tất cả. Chính vì lẽ sống tình thương của mình, anh đã đón Từ, giúp Từ thoát khỏi những tủi nhục khi một mình trơ trọi với đứa con không cha. Những giọt nước mắt của Từ và của bà mẹ già của Từ đã khiến anh xúc động. Họ muốn khóc cho đến khi “bao nhiêu xương thịt cứ tan ra thành nước mắt” nhưng gặp anh, tình thương của anh đã toả rạng đến giúp họ thoát khỏi những đớn đau. Một người dám bỏ cái đời bay nhảy của tuổi xanh để nuôi nấng vợ con chẳng là người dũng cảm lắm sao ! Chính tình thương – lẽ sống tình thương đã khiến anh làm việc ấy. Anh cao đẹp quá!

Đời anh không phải là “đời thừa” với gia đình nho nhỏ của anh. Anh đau khổ vì tên anh cứ “lu mờ dần sau những tên khác mới xuất hiện rực rỡ” nhưng với Từ và đàn con – anh là biểu tượng sáng chói của tình thương. Tình thương ấy là rất đáng trân trọng. Trong một xã hội rác rưởi “chó đểu” như thế, thành động của anh chẳng là một hành động tốt đẹp hiếm hoi hay sao? Thế nhưng, anh cũng chẳng giữ đựơc trọn vẹn cái lẽ sống cao quý ấy của mình nữa. Quả là một sai lầm khi anh kết luận: Nguyên nhân trực tiếp cho sự sụp đổ các giấc mộng văn chương chính là vợ anh và đàn con nheo nhóc kia. Anh cạn nghĩ quá! Đó không phải hoàn toàn là lỗi của vợ con anh. Thất vọng trong văn chương, buồn chán trong không khí gia đình đã khiến nah tìm niềm vui trong men rượu. Anh muốn quên, quên đi tất cả.

Anh không say trong men tình ái, trong khúc nhạc đong đưa… mà sau khủng khiếp trong men rượu. Chính anh cũng không hiểu tại sao anh về được đến nhà. Anh chỉ biết anh đã tỉnh dậy trên giường nhà mình khi tay chân rã rời. Men rượu “chết tiệt” ấy chính là cái trực tiếp làm cho bi kịch trong anh xuất hiện. Rượt đã khiến anh trở thành kẻ vô học, rượu đánh đồng loạt những người xấu, người tốt, kẻ giàu, người nghèo trong những cơn say. Khi say, ai cũng như ai hết ! Men rượu của anh không giúp anh có được cái tình của Chí Phèo giúp hắn hướng về cái “thiên lương”. Men rượu đã khiến anh trở thành một kẻ tiểu nhân vô học. Anh đã vi phạm lẽ sống tình thương của mình. Anh đã đánh vợ chon anh như một kẻ vũ phu. Vâng, chính lúc đó anh là kẻ vũ phu. Anh đã đánh đập vợ, người vợ hiền lành tận tuỵ của mình không biết bao nhiêu lần nữa mà kể. Anh chỉ mặt Từ mà quát mắng:

“Cả con mẹ mày nữa cũng đáng vật chết”. Anh đã làm tất cả, tất cả trong say. Sao mà tai hại quá ! Anh đã vi phạm lẽ sống của mình, vi phạm cái tốt đẹp – cái phần “người” vô cùng cao đẹp tưởng còn được an ủi bởi anh đã giữ trong lẽ sống tình thương của mình. Ai ngờ, cuộc sống vẫn không cho phép anh thực hiện điều đó. Thế mà nay, chính cái lẽ sống ấy anh cũng chà đạp nốt. Anh – cuộc sống đời anh quả là “đời thừa”. Bi kịch đầu tiên là bi kịch của những giấc mộng văn chương nên cái “thừa” còn không quá nhiều đau đớn như bi kịch này, bi kịch mà kết cục là cái “thừa” ấy của anh đã được được thể hiện đầy đủ. Anh đã động đến phần cao quý nhất. Đó là bi kịch tinh thần của một con người mà đau đớn hơn, đó lại là con người ý thức được phẩm giá nhân cách của mình nhiều nhất. Ở bi kịch trước, cái mặc cảm tội lỗi trong anh rất lớn vì anh là một nhà văn.

Nếu Chí Phèo chỉ gieo rắc tội lỗi của hắn cho dân làng Vũ Đại, anh giáo Thứ chỉ truyền thụ sự chán nản lên đầu học sinh thì anh – anh gieo những “tình cảm rất nhẹ, rất nông” những tình cảm qua ư tầm thường ấy vào bao nhiêu độc giả. Sự nhiễm hại ấy lớn hơn. Dù thế bi kịch thứ hai này – bi kịch của một người mặc cảm tội lỗi còn lớn hơn nhiều. Với tư cách của một nhà văn anh đã gây ảnh hưởng đến người đọc từ những bài văn viết lấy lợi nhuận. Với tư cách của một con người, anh đã gây ra những điều ghê gớm hơn. Xã hội này đã quá nhiều, quá thừa những cái xấu. Anh cố giữ tốt đẹp trong mình thế mà anh cũng phá hỏng nốt. Mặc cảm này quá lớn và không hề có gì để an ủi được. Lẽ sống tình thương là cái được anh đề cao nhất mà anh còn vi phạm thì chẳng còn gì nữa cả. Bi kịch này của anh, lớn hơn gấp bội bi kịch kia bởi lẽ sống tình thương, chỗ dựa của bao giá trị nhân phẩm khác sụp đổ.

Bi kịch này khủng khiếp và hoàn toàn không có lối thoát và dường như nó bao trùm thành bi kịch của cả đời anh – một “đời thừa”. Anh đổ lỗi tất cả cho gia đình, nhưng tất cả là tại anh. Tuy vậy cũng cần nói thêm rằng, bi kịch ấy có nguyên nhân sâu xa chính từ xã hội đương thời. Chính xã hội ấy đã đẩy anh phải lo “cơm áo gạo tiền”. Nỗi lo sinh kế đã khiến anh phải từ bỏ giấc mộng văn chương. Và chính những thất vọng ấy đã khiến anh chà đạp lên lẽ sống tình thương của mình. Nguyên nhân ấy có lẽ anh không hiểu được – nguyên nhân của xã hội thực dân nửa phong kiến – nguyên nhân mà ngày ấy người ta đã nhận ra. Anh chưa tìm được lối thoát cho sự bế tắc. Đó là cái bế tắc của thời đại mà anh đang sống.

Nhưng đó phải chăng là nét hạn chế trong tư tưởng nhân đạo của Nam Cao? Ông đã biết đề cao những khát vọng đẹp của người trí thức, đã biết thông cảm với những nổi khổ của họ nhưng chưa đề ra được lối thoát cho họ. Nhưng những “tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo” ấy đã là đáng quý, đáng trân trọng biết bao! Độc đáo, mới mẻ chính là ở lòng thương người – tình người nồng đượm bao la đằng sau lối viết văn tưởng như dửng dưng lãnh đạm.

Ngày nay cuộc đời đã được đổi thay. Lớp văn sĩ đã thoát khỏi dù là một phần những nỗi lo “cơm áo” không còn những bi kịch tinh thần như Hộ nữa. Nhà văn ngày nay được ưu đãi hơn. Chúng ta không thể quên thời kỳ mà người trí thức văn nghệ sĩ mang những bi kịch tinh thần.Tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo của Nam Cao đã khiến cho nhân vật dù qua bao thăng trầm vẫn đứng vững với tư cách một con người chân chính.

4. Phân tích giá trị nhân đạo của tác phẩm “Đời thừa” của nhà văn Nam Cao

Nam Cao là một nhà nhân đạo lớn, một cây bút xuất sắc của văn học hiện thực phê phán trước năm 1945. Nhà nhân đạo ấy đã để lại cho đời những tác phẩm thật sự có “tấm lòng lớn” như “Đời thừa”, “Chí Phèo”. Trong đó, “Đời thừa” thực sự đã để lại dấu ấn của Nam Cao về giá trị nhân đạo sâu sắc và mới mẻ.

Giá trị nhân đạo là giá trị cơ bản của một tác phẩm văn học dựa trên niềm cảm thương sâu sắc của nhà văn đối với số phận nhân vật. Nhà văn từ lòng thương người mà lên án tố cáo những thế lực đã chà đạp lên quyền sống của con người. Cũng từ lòng nhân đạo, nhà văn cũng phát hiện và ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của con người và kêu gọi giải phóng cá nhân ra khỏi những khổ đau và bất hạnh. Truyện ngắn “Đời thừa” ra đời năm 1943, là tác phẩm phản ánh sâu sắc và rõ nét về cuộc sống của những người trí thức tiểu tư sản nghèo ở nước ta trong bối cảnh đất nước bị ngoại bang giày xéo. Tác phẩm đã gây tiếng vang lớn và thực sự trở thành “tiếng kêu đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than”. Nam Cao đã phản ánh một cách rõ nét và chân thực những bi kịch lớn của người trí thức đương thời và cất tiếng kêu cứu thảm thiết đòi quyền sống cho họ.

Trong tác phẩm “Đời thừa”, Nam Cao đã xây dựng thành công giá trị nhân đạo sâu sắc ấy. Biểu hiện thứ nhất của giá trị nhân đạo là nhà văn xót xa thương cảm trước những nỗi khổ đau của nhà văn Hộ khi sụp đổ giấc mộng văn chương và bi kịch tình thương.

Nam Cao đã xót thương và đồng cảm trước bi kịch tinh thần của nhân vật Hộ , một nhà văn – một trí thức giữa “cơn dâu bể” của cuộc đời, giữa một xã hội “chó đểu” (Vũ Trọng Phụng) – Nhà văn ấy giữ được phẩm giá của mình, ý thức được “thiên chức” cao cả của mình vậy mà đành bó tay bất lực. Có thể nói, bi kịch đầu tiên trong tấn bi kịch tinh thần của cuộc đời Hộ là bi kịch về những giấc mộng văn chương. Anh mơ ước đến một ngày anh sẽ viết được một tác phẩm lớn chung cho cả loài người. Nó đề cập đến những vấn đề bức xúc của cả xã hội của cả nhân loại. Nó nói được những cái lớn lao, mạnh mẽ vừa đau đớn vừa phấn khởi, nó ca tụng lòng thương tình bác ái, sự công bình. Nó làm cho người gần người hơn.” Và nhất định anh sẽ giật giải Nobel !

Thế nhưng, trong sáng tác của mình anh đã viết những gì ? Anh đã cho ra đời những sáng tác như thế nào ? Chao ôi ! Anh đã viết những bài mà thậm chí khi đọc thấy tên của mình dưới bài viết, anh phải “đỏ mặt” xấu hổ. Anh giận dữ với chính anh. Anh khinh ghét những tác phẩm chỉ biết “gợi những tình cảm rất nhẹ rất nông bằng một thứ văn quá ư bằng phẳng dễ dãi” của chính mình. Anh dằn vặt ghê gớm, anh lên án chính mình “Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương, còn sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện”.

Chính nỗi lo về tiền bạc đã buộc anh phải viết những bài trái với lương tâm và trách nhiệm. Trong đầu anh luôn quay cuồng với những tính toán về giá cả sinh hoạt, về bữa ăn hằng hàng… thì đâu còn chỗ cho văn chương nữa. Anh phải viết thật nhanh, thật nhiều để người vợ, đàn con và chính anh khỏi chết đói. Giá như anh cứ bỏ dứt cái mộng văn chương thì chắc đời anh chẳng khốn đốn đến thế ! Nhưng anh cần nghĩ tới tác phẩm của anh – các tác phẩm cho toàn nhân loại nên anh lại càng đau đớn, càng khổ đau. Chao ôi ! “Đau đớn thay cho những kiếp sống muốn cất cánh bay cao nhưng lại bị áo cơm ghì sát đất” (Sống mòn). Đó chính là bi kịch của cuộc đời viết văn của anh – bi kịch của những giấc mộng văn chương chính là ở chỗ đó!

Bi kịch đầu tiên của cuộc đời nhà văn Hộ và đó cũng là nguyên nhân cho bi kịch thứ hai – bi kịch của một con người. Giấc mộng văn chương sụp đổ qua những bài viết ẩu. Thế nhưng Hộ vẫn còn chút an ủi. Đó chính là cuộc sống, sự tồn tại của vợ con anh. Quả là một sai lầm khi anh kết luận: nguyên nhân trực tiếp cho sự sụp đổ các giấc mộng văn chương chính là vợ anh và đàn con nheo nhóc kia. Thất vọng trong văn chương, buồn chán trong không khí gia đình đã khiến anh tìm niềm vui trong men rượu. Và rượu – kẻ “làm đỏ mặt và đen danh dự” đã đưa Hộ thành kẻ vi phạm nguyên tắc tình thương. Anh trở thành kẻ vũ phu, kẻ vô học. Rượu đẩy Hộ đến bờ vực của sự tha hóa. Chính anh cũng không hiểu tại sao anh về được đến nhà. Anh chỉ biết anh đã tỉnh dậy trên giường nhà mình khi tay chân rã rời. Men rượu “chết tiệt” ấy chính là cái trực tiếp làm cho bi kịch trong anh xuất hiện. Anh đã đánh đập vợ, người vợ hiền lành tận tuỵ của mình không biết bao nhiêu lần nữa mà kể. Anh chỉ mặt Từ mà quát mắng: “Cả con mẹ mày nữa cũng đáng vật chết”. Anh đã làm tất cả, tất cả trong say. Sao mà tai hại quá ! Anh đã vi phạm lẽ sống của mình, vi phạm cái tốt đẹp – cái phần “người” vô cùng cao đẹp tưởng còn được an ủi bởi anh đã giữ trong lẽ sống tình thương của mình. Ai ngờ, cuộc sống vẫn không cho phép anh thực hiện điều đó. Thế mà nay, chính cái lẽ sống ấy anh cũng chà đạp nốt. Lẽ sống tình thương là cái được anh đề cao nhất mà anh còn vi phạm thì chẳng còn gì nữa cả. Bi kịch này của anh, lớn hơn gấp bội bi kịch kia bởi lẽ sống tình thương, chỗ dựa của bao giá trị nhân phẩm khác sụp đổ. Viết về nỗi đau này, Nam Cao dường như cũng đang thổn thức cùng nhân vật.

Biểu hiện thứ hai của giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Đời thừa” là tiếng nói của nhà văn lên án tố cáo thế lực đã gây ra nỗi đau cho nhà văn Hộ, đẩy Hộ đến bờ vực của sự tha hóa, của bi kịch khủng khiếp. Bi kịch ấy có nguyên nhân sâu xa chính từ xã hội đương thời. Chính xã hội ấy đã đẩy anh phải lo “cơm áo gạo tiền”. Nỗi lo sinh kế đã khiến anh phải từ bỏ giấc mộng văn chương. Và chính những thất vọng ấy đã khiến anh chà đạp lên lẽ sống tình thương của mình. Nguyên nhân ấy có lẽ anh không hiểu được – nguyên nhân của xã hội thực dân nửa phong kiến – nguyên nhân mà ngày ấy người ta đã nhận ra. Anh chưa tìm được lối thoát cho sự bế tắc. Đó là cái bế tắc của thời đại mà anh đang sống.

Biểu hiện thứ ba của giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Đời thừa” đó chính là nhà văn phát hiện và trân trọng nâng niu vẻ đẹp tâm hồn của nhà văn Hộ.

Hộ là nhà văn chân chính. Anh là nhà văn rất có ý thức về nghề nghiệp. Anh mê văn, say văn và có giấc mộng đẹp, một ngày nào đó, anh sẽ viết được một tác phẩm mà sẽ “làm mờ hết tất cả các tác phẩm ra cùng thời”. Đó là tác phẩm “ca ngợi tình thương, lòng bác ái, sự công bình. Nó làm người gần người hơn”. Tác phẩm đó phải đạt giải Nobel. Đó là cuốn tiểu thuyết vĩ đại trong đời viết văn của anh. Nó sẽ làm rạng danh cho anh, cho nền văn học nước nhà. Đó quả là ước mơ chính đáng ! Không phải người nghệ sĩ nào cũng khao khát như vậy khi bước vào con đường văn chương đầy khổ ải. Nhà văn phải biết xây ước mơ đẹp, và khát vọng của Hộ là khát vọng mạnh mẽ nhất và đẹp nhất. Hộ xác định đúng con đường cho mình – xác định tư tưởng cho mình.
Hộ lên án thứ văn chương rẻ tiền, hời hợt, dễ dãi. Thứ văn chương “cẩu thả”, “bất lương”. Hộ yêu cầu văn chương phải sáng tạo, bởi “văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Hộ đầy hoài bão về giấc mơ chinh phục đỉnh cao. Anh là nhà văn chân chính.
Không chỉ vậy, Nam Cao còn phát hiện ra Hộ là con người giàu lòng nhân ái. Chính trong lời khẳng định về tác phẩm trong tương lai của mình, anh đã nói: tác phẩm có giá trị là tác phẩm “ca tụng lòng tương, tình bác ái, sự công bình”. Trong văn chương, anh muốn ca ngợi tình thương và trong cuộc đời thực, tình thương là tất cả. Chính vì lẽ sống tình thương của mình, anh đã đón Từ, giúp Từ thoát khỏi những tủi nhục khi một mình trơ trọi với đứa con không cha. Những giọt nước mắt của Từ và của bà mẹ già của Từ đã khiến anh xúc động. Họ muốn khóc cho đến khi “bao nhiêu xương thịt cứ tan ra thành nước mắt” nhưng gặp anh, tình thương của anh đã toả rạng đến giúp họ thoát khỏi những đớn đau. Một người dám bỏ cái đời bay nhảy của tuổi xanh để nuôi nấng vợ con chẳng là người dũng cảm lắm sao ! Chính tình thương – lẽ sống tình thương đã khiến anh làm việc ấy. Anh cao đẹp biết dường nào!

Biểu hiện cuối cùng của giá trị nhân đạo là niềm tin của Nam Cao vào khả năng vươn dậy của nhân vật. Cuối tác phẩm là hình ảnh Hộ ôm từ vào lòng. Bao nhiêu đau đớn, bao nhiêu hối hận dồn nén lại ở Hộ để rồi bật lên thành tiếng khóc. Tiếng “khóc nức nở, tiếng khóc bật ra như quả chanh người ta bóp mạnh” của Hộ cho ta thấy sự hối hận và đau khổ lên đến tột cùng của người trí thức tiểu tư sản nghèo có nhân cách. Giọt nước mắt ấy đã nâng đỡ Hộ, thanh lọc tâm hồn anh, giúp anh đứng vững trên bờ vực thẳm của sự tha hoá. Chắc chắn đằng sau những giọt nước mắt ấy là sự “trở về” của nhà văn Hộ.

Tư tưởng nhân đạo mới mẻ của Nam Cao thể hiện ở việc nhà văn biết đề cao những khát vọng đẹp của người trí thức, đã biết thông cảm với những nổi khổ của họ. Những “tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo” ấy đã là đáng quý, đáng trân trọng biết bao ! Độc đáo, mới mẻ chính là ở lòng thương người – tình người nồng đượm bao la đằng sau lối viết văn tưởng như dửng dưng lãnh đạm. Dường như những day dứt trong cuộc đời ông – cuộc đời văn sĩ khổ ải – đã nhập vào những suy tư của Hộ, đã nhập vào tấn bi kịch tinh thần của Hộ. Có người nói, Hộ chính là hình ảnh của nhà văn Nam Cao thời kì trước Cách mạng.

Có thể tự tin mà nói rằng với “Đời thừa”, Nam Cao đã bộc lộ được tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo của mình khi viết những dòng bi kịch về Hộ. Kinh nghiệm và vốn sống đã cho ông viết những điều có sức rung động, lay chuyển lòng người đến thế! Đó chính là nhờ tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo của nhà văn Nam Cao. Nhân đạo ở sự ca ngợi khát vọng đẹp đẽ của Hộ, nhân đạo ở sự cảm thông sâu sắc với người trí thức… Và viết lên được những dòng như thế cũng là nhờ cái nhân đạo “mới mẻ” độc đáo của Nam Cao.

Qua bi kịch tinh thần đầu tiên này của Hộ, Nam Cao đã bộc lộ được sự cảm thông, trân trọng bao kiếp người lao khổ trong cuộc đời này. Và phải chăng tư tưởng ấy đã kế thừa được của cha ông lòng nhân đạo truyền thống. Nhà văn không “phản ánh để phản ánh” mà sau những câu chữ tưởng như lãnh đạm, thờ ơ chính là một trái tim nhiệt thành, sôi nổi – một trái tim của tình nghĩa.

Tóm lại, tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo của Nam Cao đã khiến cho nhân vật dù qua bao thăng trầm vẫn đứng vững với tư cách một con người chân chính.

5. Cảm nhận về tác phẩm Đời thừa của Nam Cao

Nam Cao đối với văn học Việt Nam là một mảnh ghép lớn góp phần hoàn thiện mảng truyện ngắn và tiểu thuyết. Ông thường hướng đến và đi sâu vào hiện thực để khai thác được những bi kịch, những mảng tối cuộc đời từng con người trong xã hội trong những năm tháng còn chịu cảnh rối ren. Có một câu văn rất kinh điển của Nam Cao nhằm khẳng định tư tưởng nghệ thuật của ông ấy là: “Nghệ thuật không là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối! Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp người lầm than”. Thế nên, cả cuộc đời ông cứ đi tìm những thứ hiện thực đớn đau, đầy trái ngang từ thân phận những người nông dân cùng khổ hay những trí thức nghèo sống lay lắt luẩn quẩn. Tác phẩm Đời thừa chính là cái bi kịch mà Nam Cao đã lần mò được ra để làm rõ, để khai thác và biến chúng thành nghệ thuật một thứ nghệ thuật đầy hiện thực!

Nam Cao viết Đời thừa có lẽ trôi chảy hơn những tác phẩm khác, bởi ông vốn là một trí thức nghèo, thế nên cái cảm giác của ông và nhân vật chính có phần nhiều là tương đồng. Nam Cao chẳng phải quá vất vả để tưởng tượng và đi sâu vào nhân vật của mình như khi ông viết về những người nông dân. Đời thừa của Nam Cao là một tác phẩm hay vừa vạch ra được cái hiện thực mà Nam Cao muốn làm sáng rõ đồng thời cũng đem lại nhiều suy tưởng, triết lý rất sâu sắc về việc làm nghệ thuật. Những điều ấy đều thông qua ngòi bút tài tình của tác giả đã xây dựng cho nhân vật chính một thế giới nội tâm thật phong phú, ta đọc mà ngỡ như đó là chính bản thân Nam Cao vậy.

Nhan đề Đời thừa dường như đã nói lên hết nội dung của tác phẩm và cuộc đời của nhân vật Hộ, chính là xoay quanh hai chữ ấy. Hộ vốn là một chàng trai trẻ với nhiều hoài bão mơ ước, rồi đời Hộ đã bước sang trang mới khi Hộ gặp Từ - người phụ nữ khốn khổ bất hạnh, bị nhân tình lừa cho có thai rồi bỏ rơi. Hộ lúc ấy đâu nghĩ đến mai sau mà chỉ nghĩ rằng mình phải cứu Từ, phải có trách nhiệm với Từ, thế là Hộ nhận Từ làm vợ, nhận làm cha đứa trẻ. Những tháng ngày đầu tiên vợ chồng Hộ cũng hạnh phúc lắm, bởi vì Từ là một người hiền dịu lại rất mực nghe lời chồng, nên Hộ thấy thế là đủ, là tốt lắm. Nhưng rồi cái cuộc sống khốn khổ dần khiến Hộ không còn là Hộ nữa. Khi xưa Hộ có thể tự vỗ ngực mà nói rằng: “Ðói rét không có nghĩa lý gì đối với gã trẻ tuổi say mê lý tưởng. Lòng hắn đẹp. Ðầu hắn mang một hoài bão lớn. Hắn khinh những lo lắng tủn mủn về vật chất”. Nhưng giờ đây đã khác, hắn có thể nhịn đói nhưng còn vợ hắn, con hắn có thể nhịn được không, với tư cách của một người chồng người cha Hộ không thể làm thế. Những lý tưởng cao đẹp khi xưa, những trăn trở về một tác phẩm có giá trị cho cuộc đời, những tư tưởng vị nhân sinh, rồi thì những “băn khoăn nghĩ đến một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời...” dần bị Hộ đẩy ra xa.

Hộ chỉ còn kịp nghĩ đến việc làm thế nào để có thật nhiều tiền, để vợ con không chết đói, Hộ viết những thứ văn chương tồi tàn, những tác phẩm mì ăn liền, mà theo Hộ thì đó “toàn những cái vô vị, nhạt nhẽo, gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông, diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi”. Hộ thấy xấu hổ, nhục nhã vì đã đi ngược lại với lý tưởng mình hằng tâm niệm, vì sự cẩu thả bất lương trong làm nghệ thuật của mình. Hộ dằn vặt bản thân mãi trong cái suy nghĩ đau khổ ấy, rồi Hộ tự thấy mình là người thừa, là một cuộc đời thừa thãi trong cái thế giới văn chương cao đẹp, nơi mà “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có...”. Hộ trở nên chán nản, cục súc với cả Từ người vợ mà bấy lâu luôn luôn “rất ngoan, rất phục tùng, rất tận tâm”. Anh từng có những suy nghĩ rất lêch lạc ví như: “Phải biết ác, biết tàn nhẫn để sống cho mạnh mẽ”, nhưng rồi tấm lòng nhân hậu, yêu thương gia đình lại không cho phép anh làm những điều tồi tệ, anh không thể ruồng bỏ vợ con để được tiếp tục theo đuổi nghệ thuật chân chính của mình. Rồi cứ thế Hộ lại thỏa hiệp với cuộc sống lăn lộn kiếm tiền, nhưng tiền cứ mãi thiếu hụt, Hộ dường như muốn điên lên, anh cảm thấy thật uất ức, căm hận cuộc sống đang dồn ép một con người khốn khổ như anh. Hộ dần tìm đến những cuộc vui, những cuộc đàn đúm, Hộ bắt đầu tìm đến rượu để quên đi cái đau khổ trong tâm trí.

Hộ dần đánh mất bản thân mình, Hộ đang tiến rất gần vào bước đường sa ngã rồi. Nhưng thật may sao, tình yêu của Từ, sự nhẫn nhịn của Từ đã kéo Hộ ra khỏi bước đường tăm tối, trước khi Hộ đi xa hơn nữa. Hộ chỉ thực sự tỉnh ra khi nhận ra mình sắp mất Từ thật rồi, nhưng cuộc đời của Hộ vẫn chưa thoát ra khỏi được cái bi kịch của chính mình. Bi kịch về một ước mơ, một lý tưởng buộc phải bỏ dở vì chính cái nhân cách cao đẹp…

Trong truyện còn một nhân vật không kém phần quan trọng đó là Từ, vợ của Hộ. Cuộc đời người phụ nữ này đã phải gặp nhiều khổ đau ngang trái, cho đến khi gặp Hộ những tưởng Từ sẽ được hạnh phúc, nhưng rồi Từ cũng lại rơi vào một bi kịch khác. Từ rất ngoan, rất thương chồng con, cô chưa bao giờ nặng lời với chồng nửa lời. Bởi Từ mang ơn chồng, chính là Hộ đã cứu mẹ con Từ, cũng cứu lấy cái danh dự cả đời cho Từ. Rồi thì Hộ cũng rất yêu Từ và cô cũng yêu anh, nên cô cố gắng thật ngoan ngoãn để vun vén cho cái tổ ấm khó khăn lắm mới có được này. Thấy Hộ say mèm, thấy Hộ quát mắng dọa nạt, Từ cũng chỉ biết nhẫn nhịn, nhà thiếu thốn, lại thấy chồng phải vất vả mưu sinh, dằn vặt đau khổ, cô chỉ biết nhịn ăn nhịn tiêu để chồng mình đỡ khổ. Trong tâm trí Từ, chính cô là người đã gây nên bi kịch cuộc đời Hộ, chính vì cô mà anh phải khổ tâm như vậy. Nên đôi lúc Từ cũng định dứt áo ra đi, có lẽ thế đời Hộ sẽ bớt khổ hơn chăng. Nhưng cái tấm lòng yếu đuối của một người vợ yêu chồng, một người mẹ yêu con không cho phép Từ làm thế, mà Từ cũng không làm được, vậy là Từ lại ở lại, tiếp tục làm một người vợ ngoan, cố thu mình lại để không khiến Hộ phiền lòng. Từ quyết tâm sẽ đồng cam cộng khổ với Hộ dù có phải chịu đói chịu rét hơn nữa. Có lẽ cả câu chuyện ta chỉ thấy thật xót xa cho Từ, đỉnh điểm nhất là cảnh Từ nằm ôm con ngủ trên võng, hình ảnh cánh tay nhợt nhạt, thấy cả đường gân xanh bóng. Một người phụ nữ yếu đuối sao lại mang trong mình nhiều bi kịch đến vậy. Cảnh vợ chồng ôm nhau khóc nức nở, đó chính là sự vỡ òa trong bi kịch cuộc sống của cả hai, Hộ đã tỉnh ngộ, còn Từ khóc vì cuối cùng Hộ đã quay trở lại là Hộ trước kia.
Lời ru con cuối truyện của Từ không khỏi dấy lên trong lòng người đọc những suy ngẫm về hiện thực xã hội những năm trước cách mạng tháng Tám.

"Ai làm cho gió lên giời

Cho mưa xuống đất, cho người biệt li

Ai làm cho Nam, Bắc phân kỳ

Cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thân"

Chính viễn cảnh đất nước rối ren như thế, khiến những thân phận người trí thức cũ phải ngậm ngùi chôn vùi đi những lý tưởng cao đẹp về nghệ thuật, phải lăn lộn làm trái lương tâm để kiếm những đồng tiền còm cõi bằng thứ văn chương rẻ mạt.

Truyện ngắn Đời thừa là một tác phẩm xuất sắc của Nam Cao viết về những bi kịch của tầng lớp trí thức cũ trước cách mạng tháng tám. Ông đi sâu vào miêu tả nội tâm nhân vật để khai thác được những tinh túy từ tâm hồn người trí thức, những quan niệm về nghệ thuật thật đắt giá và ý nghĩa. Đó cũng chính là quan điểm văn chương mà Nam Cao hằng theo đuổi. Đồng thời câu chuyện cũng là một tác phẩm mang nhiều giá trị nhân đạo sâu sắc, ở đó ta thấy hiện lên một tình người cao cả, tình yêu thương thủy chung của vợ chồng, rồi lòng thương con sâu sắc, dù bị vùi dập trong bi kịch nhưng những tình cảm ấy vẫn trồi lên trên tất cả làm nên ý nghĩa của cả tác phẩm.

x
    Nổi bật
        Mới nhất
        5 bài văn phân tích tác phẩm Đời thừa - Nam Cao - Ngữ văn 11
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO