Giải trí

Tổng hợp các bài nghị luận văn học về tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu

Hùng Cường 06/03/2024 15:10

Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu tuyển chọn các bài văn mẫu cực hay. Qua những bài văn mẫu này, các bạn học sinh có thể lựa chọn cho mình một cách tiếp cận, một giọng điệu văn thích hợp, để sau đó nó trở thành kiến thức tâm đắc của chính mình.

ADQuảng cáo
den-va-xanh-duong-dam-chuyen-nghiep-de-xuat-nganh-cong-nghiep-thuc-pham-ban-thuyet-trinh-su-menh-va-muc-tieu-3-.jpg

Đề 1: Phân tích chi tiết tấm ảnh nghệ thuật được chọn trong bộ lịch cuối năm của tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa

Nguyễn Minh Châu là nhà văn của những biểu tượng. Truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau 1975 đạt được sự hàm súc, đa nghĩa một phần là nhờ nhà văn đã sáng tạo được những hình ảnh, chi tiết giàu giá trị biểu tượng. Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa là một trường hợp như vậy.

Hình ảnh tấm ảnh trong bộ lịch cuối năm đã khép lại tác phẩm nhưng đọng lại mãi với những suy tư, tự nghiệm của nghệ sĩ Phùng và người đọc: “Không những trong bộ lịch năm ấy hòa lẫn trong đám đông”. Không khó khăn mấy người đọc cũng nhận thấy ở đây dường như có hai bức ảnh trong một khuôn hình.

Trước hết đó là một bức ảnh thuần nghệ thuật dành cho những nhà sành nghệ thuật: Một bức ảnh mang vẻ đẹp toàn mĩ, vốn là một cảnh đắt trời cho, kết tinh công phu và sự may mắn của người nghệ sĩ (sau hàng tuần mai phục, Phùng đã chộp được). Một bức ảnh về con thuyền được chụp từ ngoài xa với vẻ đẹp hài hòa giữa con người và cảnh vật. Một cảnh đẹp được ghi lại bằng một ấn tượng thuần tuý nghệ thuật. Một bức ảnh không chỉ đem đến một niềm hạnh phúc cho người sáng tạo mà còn đủ sức thuyết phục với cả những nhà sành nghệ thuật và có sức sống lâu bền “ mãi mãi về sau”…

Đằng sau bức ảnh nghệ thuật đó là một bức ảnh cuộc sống hiện thực trần trụi, lam lũ mà trung tâm là hình ảnh người đàn bà vùng biển cao lớn với dáng người thô kệch…bước những bước chậm rãi, bàn chân đặt trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông. Một hình ảnh không còn thơ nữa mà rất đời. Hình ảnh này đã trở thành một ám thị đối với Phùng “mỗi lần ngắm kĩ tôi vẫn thấy”. Nhưng tại sao chỉ riêng Phùng mới thấu thị như vậy mà những người khác thì không? Phải chăng vì Phùng biết nhìn kĩ, nhìn lâu, nhìn thẳng; biết nhìn xuyên qua màu hồng hồng của ánh sương mai, nhìn cho ra được những “thô kệch, ướt sũng, nhợt trắng, bạc phếch…” Và điều quan trọng nhất là Phùng biết nhìn bằng trải nghiệm. Hay nói khác đi Phùng không chỉ nhìn mà còn sống trong cuộc đời, đau đáu nỗi đau của người đàn bà hàng chài, lắng nghe câu chuyện của chị.

Dùng nghệ thuật tương phản kết hợp với một chút phi lí (bức ảnh đen trắng nhưng lại nhìn ra màu hồng hồng), Nguyễn Minh Châu đã dựng lên một ẩn dụ nghệ thuật với bao nhiêu thông điệp, nhận thức:

Thứ nhất, nghệ thuật cất lên từ cuộc sống nhưng giữa cái đẹp của nghệ thuật và cuộc sống luôn có khoảng cách. Đôi khi ngay đằng sau cái đẹp mơ màng và tưởng như toàn bích kia lại chứa đựng trong đó những hiện thực cuộc sống còn đầy khiếm khuyết, nhức nhối. Không cẩn thận cái đẹp thuần túy nghệ thuật lại trở thành cái đẹp giả dối…

Thứ hai, cần phải nhìn thẳng vào cuộc sống dù nó không phải thơ mộng như chúng ta muốn

Thứ ba, cần phải kéo gần khoảng cách giữa nghệ thuật và cuộc sống, muốn phản ánh trung thực cuộc sống người nghệ sĩ phải đi đến với cuộc đời, cúi xuống thật gần những số phận cá nhân vốn nhiều bi kịch, lắng nghe câu chuyện của họ…

Chi tiết này đã gieo ra một tình huống tự nhận thức mà ở đó người ta thấy rõ hơn về nhân vật Phùng: Phùng không phải tìm kiếm ở đâu mà anh đang cày xới, lật lại, đào sâu hơn vào chính bức ảnh của mình, chính thứ nghệ thuật tưởng như đã hoàn mĩ của mình. Không ai bắt anh làm thế và không ai biết anh làm thế, nhưng với trách nhiệm, lương tâm của một nghệ sĩ chân chính buộc anh phải liên tục trăn trở như vậy. Con người Phùng hay cũng chính hình ảnh tác giả bởi nhà văn đã từng đặt mệnh lệnh cho mình: Không có quyền miêu tả cuộc sống một cách hời hợt. Sự lo lắng cho con người đã trở thành nỗi quan hoài thường trực.

Không phải đến cuối chi tiết bức hình mới xuất hiện và cũng không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu lại kết thúc truyện ngắn của mình bằng chi tiết này: Phùng nhận nhiệm vụ chụp ảnh cho bộ lịch cuối năm là anh đã khoác vào mình một thiên chức quan trọng của nghệ thuật (làm sao phải đẹp để thỏa mãn nhà xuất bản và thị hiếu mọi người nhưng đồng thời lại nói được trung thực nhất về cuộc sống). Phùng đã làm nên bức ảnh bằng tất cả niềm đam mê và trách nhiệm và anh đã có được niềm vui của một người nghệ sĩ chân chính.

Khép lại tác phẩm, chính bức ảnh ấy lại làm anh không dứt khỏi những ưu tư, vỡ ra bao nhiêu nhận thức. Chi tiết bức ảnh đã trở thành một cấu tứ cho truyện ngắn này. Riêng tôi vẫn tự đặt câu hỏi: Nếu được chụp lại bức ảnh Phùng sẽ chụp như thế nào? Điều đó hẳn cũng có nhiều thú vị!

Đề 2: Em hãy phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu

Hình tượng người phụ nữ là đề tài trở đi trở lại trong văn học. Sự yêu thương giành cho những người phụ nữ sâu sắc bao nhiêu thì trước nỗi đau thân phận của họ những trang viết lại càng nhức nhối bấy nhiêu. Nỗi đau ấy từ thân phận nàng Kiều, những người chinh phụ chảy trong tim những nghệ sĩ đến với những Thị Nở, những cô vợ nhặt…và trở nên đầy ám ảnh trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Ở đây tác giả đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ lao động lam lũ, bất hạnh, trải đời và sáng đẹp tình yêu thương, đức hi sinh và lòng vị tha cao cả. Người phụ nữ bất hạnh ấy đã để lại cho người đọc một niềm cảm thông và trân trọng sâu sắc bởi những phẩm chất đáng quá của người phụ nữ.

Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới, cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái, nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn. Truyện ngắn này lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in năm 1987.

Nguyễn Minh Châu được coi là “người mở đường tinh anh và tài năng” trong nền văn học nước nhà. Là nhà văn luôn đi tìm tòi, khám phá con người ở chiều sâu nội tâm nên những tác phẩm của ông như những văn bản tự sự cỡ nhỏ. Nhà văn óc thể chỉ “Cắt lấy một lát”, “cưa lấy một khúc” và “chớp lấy một khoảnh khắc” để phản ánh bi kịch của cả một đời người và đưa ra triết lí nhân sinh. Tác giả đã xây dựng thành công nhân vật Phùng bên cạnh nhân vật người đàn bà hàng chài để làm nổi bật lên phẩm chất đáng quý của người đàn bà ấy. Tất cả mọi việc xảy ra trong cuộc đời, số phận, tính cách, cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn trở mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với người đọc.

Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Phùng được dịp trở về chiến trường xưa để chụp một bức tranh cảnh biển theo lời đề nghị của trưởng phòng. Tại đây anh đã phát hiện ra một bức tranh cảnh biển có một không hai: “trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa”. Cảnh đẹp ấy khiến cho người nghệ sĩ dường như vừa “khám phá thấy cái chân lí của sự hoàn thiện”. Nhưng đằng sau chiếc thuyền đẹp như trong mơ ấy lại là một cảnh tượng phũ phàng: Người đàn bà xấu xí, người chồng vũ phu, thô bạo hành hạ người đàn bà bằng những trận đòn thù, người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng. Phùng từ sung sướng đến ngạc nhiên, sững sờ sửng sốt. Nghịch cảnh ấy khiến lòng anh tan vỡ.

Đọc hết câu truyện người đọc cũng không biết tên thật của người đàn bà ấy là ai, tác giả đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta…. như một sự xóa mờ nhằm tô đậm thêm số phận của chị. Khi người đàn bà này xuất hiện ở tòa án huyện để gặp chánh án Đẩu, ta vẫn không biết tên. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu không đặt tên cho người đàn bà hàng chài này, cũng không phải nhà văn “nghèo” ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà là vì chị cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này: chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam. Điều đó chỉ ra một thực tế rằng, không phải chỉ mình người đàn bà đó gặp bất hạnh mà có rất nhiều phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ chịu những bất hạnh như thị. Nhân vật người đàn bà hàng chài ít nhiều cũng làm ta nhớ đến nhân vật thị trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân. Phải chăng vẫn là những số phận của con người đang sống giữa cuộc đời mà sự sống thật mong manh. Cảm thương thay cho số phận những con người.

Tác giả đã dùng những ngôn từ rất đắt giá để miêu tả về ngoại hình người đàn bà hàng chài có thân hình xấu xí tàn tạ “trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Vì cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch. Không những thế tác giả còn tập trung miêu tả ánh mắt của người đàn bà: “Chị đưa mắt nhìn xuống chân,… nhìn ra ngoài bờ phá”. Cách miêu tả của nhà văn không chỉ cho thấy sự tủi cực, vất vả của người phụ nữ ấy mà còn hé mở những đau khổ tinh thần đang giày xéo tâm can

Người đàn bà hàng chài bất hạnh ấy không chỉ phải chịu thiệt thòi về ngoại hình mà tạo hóa mang lại mà dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ… Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh đã vậy chị lại còn có khuôn mặt rỗ là hậu quả của trận dịch đậu mùa nên không ai thèm để ý, suốt từ khi còn nhỏ. Rồi chị có mang với một anh hàng chài đến mua bả về đan lưới và thành vợ chồng.

Cứ ngỡ tưởng có một cuộc sống gia đình thì sẽ có hạnh phúc và ấm êm. Nhưng cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh. Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,… Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ thường xuyên cứ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Cứ khi nào lão chồng thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, như đánh một con thú với lời lẽ cay độc “Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Quả thực, người đàn bà hàng chài có cả một cuộc đời cơ cực, nhọc nhằn, khốn khổ. Chị là nạn nhân của sự nghèo đói, thất học và lạc hậu. Số phận, cuộc đời chị dần dần hiện ra rõ nét khi chị đến toà án huyện. Số phận đầy bi kịch ấy được tác giả tái hiện đầy cảm thông và chia sẻ.

Nhân vật người đàn bà hàng chài để lại ấn tượng không thể phai mờ trong lòng người đọc chính là bởi những vẻ đẹp tâm hồn. Là một người phụ nữ yếu đuối phải chịu bao đắng cay tủi phận của cuộc đời nhưng chị lại có một phẩm chất đáng quý. Trước hết là sự nhẫn nhục, chịu đựng vì hoàn cảnh. Chị coi việc mình bị đánh đó như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình. Chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy cũng như không hề có ý định rời bỏ gia đình ấy, rời bỏ người chồng vũ phu của mình. Chị hiểu cơ cực của cuộc sống mưu sinh đầy cam go trên biển nếu không có người đàn ông: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề và còn để đối mặt với những ngày phong ba bão tố. Đó là sự cam chịu, nhẫn nhục đáng cảm thông, chia sẻ thậm chí là trân trọng. Cách xử sự của người đàn bà là không thể khác được đối với một con người sống đầy trách nhiệm.

Ở nhân vật người đàn bà hàng chài xấu xí và khổ đau ấy có một tình mẫu tử bao la. Mặc dù phải chịu khổ cực, nhưng người phụ nữ ấy quyết cam chịu tất cả, làm tất cả vì những đứa con thân yêu của mình. Thị nhận thấy rằng, các con là cuộc sống, lẽ sống, là tất cả những gì có trên cuộc đời này của mụ. Khi tòa án đưa ra giải pháp li dị, chị đã từ chối. Có nghĩa là chị từ chối trút bỏ tấm bi kịch nhục nhã của đời mình. Với người đàn bà này thà bị đi tù, bị đánh đập còn hơn phải bỏ chồng: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, nhưng đừng bắt con bỏ nó”. Lí do bà đưa ra thật đơn giản nhưng cũng thật xót xa: cần có chồng để cùng nuôi những đứa con. Thì ra sự sinh tồn của những đứa con là nguyên nhân để người đàn bà ấy sống kiếp cam chịu.

Tình yêu thương của người mẹ dành cho đàn con chính là sức mạnh để người đàn bà ấy nhẫn nhục: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất liền được”. Người đàn bà đã chủ động nhận về mình mọi đau đớn để đảm bảo sự sinh tồn cho con cái bởi gia đình đông con sống dựa vào nghề sông nước đầy bất trắc. Thậm chí khi bị đánh bà còn chủ động xin chồng thay đổi địa điểm đánh: “Sau này, con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh”. Bà muốn hứng trọn nỗi đau cho riêng mình, không để các con bị tổn thương.

Cũng giống như bà cụ Tứ quay mặt đi giấu những giọt nước mắt vào sâu trong lòng cho riêng mình để Tràng và thị được hưởng chút hạnh phúc nhỏ nhoi trong cuộc sống mưu sinh khi cái đói cái chết cận kề. Tình yêu thương như một bản năng mãnh liệt ngàn đời được bộc lộ một cách cảm động và sâu sắc nhất ở người phụ nữ này. Tình mẫu tử vút lên, trên cái nền của cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa. Nên ai đó có ví công lao của người mẹ như biển Thái Bình thì ta thiết nghĩ cũng thật dễ hiểu.

Thậm chí, bà rất thương yêu thằng Phác, thằng con ương bướng nhất trong số những đứa con của bà, tính nết và ngoại hình của nó giống bố như lột nên rất yêu con mà bà phải gửi có lên rừng cho ông nuôi. Thật đau đớn biết bao khi người mẹ ấy đã phải van xin chồng cho lên bờ đánh để các con không nhìn thấy cảnh đó. Nhưng chính thằng Phác lại tận mắt chứng kiến cảnh bố nó đánh đập mẹ nó thậm tệ. Một tình mẫu tử đã trỗi dậy, theo bản năng của một đứa trẻ con còn suy nghĩ nông cạn nó lao nhanh như mũi tên bắn vào chống trả quyết liệt. Thậm chí nó còn định lấy dao đâm bố. Bởi nó đã hứa với lòng mình chừng nào nó còn ở đây thì sẽ không để mẹ nó bị đánh. Ta vừa cảm thương và vừa tủi giận trước hành động rất con trẻ của thằng Phác.

Và thật bất ngờ khi người mẹ phản ứng trước cách thằng Phác thương mình. Khi gã chồng tát cho thằng con một cái ngã dúi dụi xuống cát và bỏ đi thì lúc này lòng thương con mới trỗi dậy. “Người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn – vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã”. Để rồi miệng bà mếu máo gọi, “người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy”. Ta lại tìm thấy một nghịch lí trong cách hành xử của người đàn bà. Tại sao khi bị gã đàn ông đánh chửi vũ phu, tàn bạo bà không xấu hổ, tủi nhục mà khi chứng kiến cảnh con đánh trả bố bà lại đau đớn đến vậy?. Có lẽ lúc này đã có vô số luồng điện chạy trong tâm trí của người đàn bà kia. Liệu thằng Phác nhìn thấy cảnh này tâm hồn của một đứa trẻ sẽ ra sao? Nó nghĩ gì về bố và mẹ nó? Sau này lớn lên liệu có giống tính bố nó không?

Bà đã cố giữ gìn một mái ấm gia đình trước mắt các con để chúng có niềm vui và đặc biệt để tâm hồn chúng không bị lắng những cặn bẩn của cuộc sống để vẩn đục tâm hồn. Nhưng giờ đây bà bất lực. Sự chịu đựng và hi sinh của bà đã vô ích chăng? Bởi khi nhìn thằng Phác chẳng hề hé răng thì bà như có cảm giác “như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà làm rỏ xuống những dòng nước mắt”. Cảm nhận được nỗi đau đớn cực đỉnh của người đàn bà lúc này ta mới thấy hết bà yêu thương con đến nhường nào, cái nỗi đau tận cùng vì lòng yêu mà hi sinh nhưng vô ích. Thật cảm động trước tấm lòng người mẹ lao động nghèo khổ này. Hành động giản đơn mà cao đẹp nghĩa tình.

Người đàn bà cằn cõi ấy lại có lòng bao dung, độ lượng vô bờ bến. Sau tất cả những nỗi đau mà người chồng đã gây ra cho bà, bà vẫn có một tấm lòng bao dung, độ lượng đối với chồng. Nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu nhìn người chồng là kẻ vũ phu, thô bạo, đáng lên án. Nhưng qua cái nhìn của người vợ, lão từng là: “anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”. Bị chồng đánh đập thô bạo nhưng bà cũng không oán trách vì bà hiểu nỗi khổ của chồng, hiểu cái khổ đã làm người hiền lành trở thành ác độc. Chính cuộc vật lộn mưu sinh đã biến lão trở thành kẻ vũ phu, thô bạo.

Người ta làm điều ác nhiều khi không phải vì người ta xấu mà là vì khổ sở. Bà còn hiểu rằng chồng mình vừa là nạn nhân khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho người thân của mình cũng chỉ vì nghèo đói, ít học vì cuộc sống mưu sinh. Thậm chí bà còn sẵn sàng nhận lỗi về mình, coi mình là nguyên nhân khiến cuộc sống của chồng trở nên khốn khổ bởi bà nghĩ: lũ đàn bà trên thuyền đẻ nhiều quá, nhà nào cũng một đặng trên dưới chục đứa con. Chính vì vậy công cuộc mưu sinh như dồn hết lên đôi vai của người dàn ông. Chính vì thế bà nghĩ mình là căn nguyên nỗi khổ và sự tha hóa của người chồng vốn hiền lành nhưng hơi cục tính xưa kia. Đây quả là người phụ nữ có cái nhìn sâu sắc, đa chiều, bao dung, độ lượng với chồng.

Người đàn bà hàng chài dưới ngòi bút của Nguyễn Minh Châu là một người trải đời, hiểu đời. Phải nói rằng, nhà văn đã có cái nhìn đầy thương cảm và trân trọng đối với người phụ nữ ấy nên mới khắc họa lên được một người đàn bà hàng chài tuy thất học nhưng không tăm tối, ngược lại rất thấu trải lẽ đời, rất sắc sảo. Đó là phẩm chất phi thường không phải ai cũng có được. Sự trải đời ấy của người đàn bà bị che lấp sau vẻ bề ngoài thô kệch, xấu xí. Thậm chí là những hành động tưởng như đầy lóng ngóng, bỡ ngỡ khi đặt chân vào căn phòng của chánh án Đẩu. Ẩn trong vẻ khúm núm, sợ sệt trước thái độ của Đẩu và sự xuất hiện đường đột của Phùng. Nhưng người đàn bà ấy bỗng chốc trở nên nhanh nhẹn và sắc sảo không ngờ khi bà nói về cuộc đời với những lí lẽ riêng của một con người từng trải. Để từ đó Đẩu và Phùng phải vỡ lẽ và “ngộ” ra bao điều.

Bà hiểu thiện chí của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng khi khuyên bà bỏ người chồng vũ phu, tàn bạo. Song bà càng hiểu hơn cuộc sống trên sông nước. Bà chắt ra từ cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ một chân lý mộc mạc nhưng thấm vị mặn của đời thường: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba”. Cuộc sống thực tế cần có một người đàn ông để làm chỗ dựa, dù đó là người chồng vũ phu tàn bạo. Bà cũng hiểu và tự hào với thiên chức của người phụ nữ: “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”. Chính vẻ đẹp mẫu tính, đầy hi sinh cao thượng ấy đã tôn vinh người đàn bà với vẻ ngoài xấu xí, thô kệch.

Trong khổ đau, người đàn bà nâng niu chút hạnh phúc nhỏ nhoi đời thường. Cuộc sống của người đàn bà ấy có đau khổ thì nhiều mà hạnh phúc thì quá hiếm hoi. Vì vậy bà rất nâng niu những giây phút vợ chồng con cái sống bên nhau vui vẻ, hòa thuận. Vì cái hạnh phúc hiếm hoi, ít ỏi đó phải trả giá bằng những hành hạ, bạo tàn những nỗi đau cả thể xác lẫn tinh thần. Niềm vui lớn nhất là của chị là “lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”.

Với những kiếp đàn bà nhọc nhằn đó nói đến niềm vui thật xa xỉ, nhưng sự tận tụy hi sinh cho chồng con chính là niềm vui lớn nhất đối với người phụ nữ. Đó chính là sức mạnh nội tâm nâng đỡ người đàn bà: “lần đầu tiên trên gương mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên một nụ cười”- Nụ cười được góp nhặt và chắt chiu trong cuộc đời đầy khổ đau, nước mắt với đòn roi. Đó là triết lí sâu sắc về cuộc sống và con người: Quan niệm hạnh phúc của con người nhiều khi thật đơn giản, khát vọng hạnh phúc thật nhỏ bé mà vẫn nằm ngoài tầm tay.

Nguyễn Minh Châu đã rất chú trọng trong việc miêu tả nhân vật. Tác giả đã dùng biện pháp đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại hình và tâm hồn, của người phụ nữa ấy để làm nổi bật lên những phẩm chất cao thượng đáng được ngợi ca. Qua cuộc đời của người đàn bà hàng chài, tác giả cũng đặt ra những vấn đề nhức nhối của cuộc sống: nạn bạo hành trong gia đình, sự nghèo đói, thất học, sự tha hóa về nhân cách… những ngang trái, nghịch lý của cuộc sống.

Trong tác phẩm tác giả còn xây dựng một nhân vật nữ như bóng ảnh của người đàn bà đó chính là chị gái lớn của thằng Phác. Cô gái ấy không xuất hiện nhiều trong tác phẩm nhưng cũng để lại những suy tư và ám ảnh. Nếu thằng Phác là bóng ảnh của gã đàn ông thì cô gái ấy là bóng ảnh của người đàn bà. Trong khi thằng Phác nông nổi thương mẹ bằng cách chống trả bố mình một cách quyết liệt. Thì cô chị gái thể hiện sự trưởng thành và chín chắn của mình. Nó đã kịp ngăn cản thằng em, không cho em làm việc dại dột và kịp lấy con dao ra khỏi tay thằng Phác. Đó là suy nghĩ của một cô gái đã trưởng thành và nhận thức.

Đặc biệt, cô chị còn là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho người đàn bà, bởi cô ấy gần gũi và bên mẹ một cách âm thầm, lặng lẽ không ồn ào như thằng Phác. Đó là cách biểu hiện tình yêu thương của một cô con gái. Hôm người mẹ đi lên tòa án huyện cô con gái đã đi cùng. Cô lặng lẽ ngồi bên ngoài đợi mẹ với chiếc áo tím. Khi người mẹ đưa ánh mắt mệt mỏi nhìn ra ngoài bờ phá cũng là lúc bà bấu víu vào hình ảnh cô con gái thân thương của mình với chiếc áo tím ngồi đợi bà trên chiếc thuyền thúng.

Chỉ với hai chi tiết nhỏ nhưng người đọc có thể tìm thấy những nét tương đồng ở cô thiếu nữ trẻ này với người đàn bà hàng chài mà cô gọi là mẹ kia. Liệu sau này lớn lên cô có trở thành người phụ nữ cam chịu, nhẫn nhịn, bao dung, từng trải và am hiểu như mẹ mình hay không? Câu trả lời có lẽ đã tìm được nhưng chúng ta vẫn hi vọng cuộc sống của những người đàn bà ven biển sẽ tốt lên, sẽ không còn những cô gái áo tím theo chân những người đàn bà hàng chài kia nữa.

Người đàn bà hàng chài có lẽ không chỉ là hình ảnh đeo bám, ám ảnh Phùng mỗi khi anh nhìn vào tấm ảnh đã chụp của mình mà còn là hình ảnh làm day dứt lòng người đọc sau khi gấp trang truyện lại. Ta băn khoăn tự hỏi lòng rồi thân phận người phụ nữ ấy sẽ ra sao giữa cuộc đời cơ cực, khó khăn. Đó là câu hỏi không chỉ Nguyễn Minh Châu đặt ra trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa cách đây ba thập niên mà còn là vấn đề thời sự ngày nay khi xã hội đề cao nữ quyền và chống bạo lực gia đình. Thế nên, chắc chắn tác phẩm của Nguyễn Minh Châu mãi mãi về sau vẫn sẽ còn nguyên giá trị.

Đề 3: Hãy nêu cảm nhận về sự đối lập giữa vẻ đẹp của hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa và cảnh bạo lực ở gia đình hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa

Trong văn học cách mạng trước năm 1975, thước đo giá trị chủ yếu của nhân cách là sự cống hiến, hi sinh cho cách mạng, là các tiêu chuẩn đạo đức cách mạng được thể hiện chủ yếu trong mối quan hệ với đồng chí, đồng bào, với kẻ thù. Sau năm 1975, văn chương trở về với đời thường và Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kỳ đổi mới đã đi sâu khám phá đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Khi làm cho người đọc ý thức về sự thật, có khả năng nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện nhiều mối quan hệ xã hội phức tạp, chằng chịt, thì văn chương đã ít nhiều đáp ứng được nhu cầu nhìn nhận và hoàn thiện nhiều mặt của nhân cách con người. Truyện Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu là phát hiện về đời sống và con người theo hướng đó.

Phát hiện thứ nhất của nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh là một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh, nơi anh đã dự tính bố cục, đã “phục kích” mấy buổi sáng để “chụp” được một cảnh thật ưng ý. Giây phút ấy đã tới, đôi mắt nhà nghề của người nghệ sĩ đã phát hiện ra vẻ đẹp “trời cho” trên mặt biển mờ sương, vẻ đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ anh chỉ có diễm phúc bắt gặp được một lần: “trước mặt tôi là bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét vào bầu sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới… toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp… Tôi tưởng thấy chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ chính là cái hạnh phúc của khám phá và sáng tạo, của sự cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu. Dường như trong hình ảnh về chiếc thuyền ngoài xa giữa trời biển mờ sương, anh đã bắt gặp cái tận Thiện, tận Mỹ, thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài hòa, lãng mạn của cuộc đời.

Phát hiện thứ hai của nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh lại đầy nghịch lý, nó bất ngờ và trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống. Phùng đã từng có “cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại”, anh đã từng chiêm nghiệm “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”, vậy mà hóa ra đằng sau cái đẹp “toàn bích… toàn thiện” mà anh vừa bắt gặp trên mặt biển xa lại chẳng phải là “đạo đức”, là “chân lý của sự toàn thiện”. Anh đã chứng kiến từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ ấy bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu; một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn và độc ác, coi việc đánh vợ như một phương cách để giải tỏa những uất ức, khổ đau. Phùng đã từng là người lính cầm súng chiến đấu để có vẻ đẹp thanh bình của thuyền biển mênh mông, anh không thể chịu được khi chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ một cách vô lý và thô bạo. Nhưng anh chưa kịp xông ra thì thằng Phác, con lão đàn ông đã kịp tới để che chở cho người mẹ đáng thương. Chỉ đến lần thứ hai, khi lại phải chứng kiến cảnh ấy, Phùng mới thể hiện được bản chất người lính không thể làm ngơ trước sự bạo hành của cái ác. Lão đàn ông đánh trả, Phùng bị thương, anh được đưa về trạm y tế của tòa án huyện, ở đó có chánh án Đẩu, bạn chiến đấu cũ của anh. Phùng cay đắng nhận thấy những cái ngang trái, xấu xa, những bi kịch trong gia đình thuyền chài kia đã là thứ thuốc rửa quái đản làm những thước phim huyền diệu mà anh dày công chụp được bỗng hiện hình thật khủng khiếp, ghê sợ.

Câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện là câu chuyện về sự thật cuộc đời, nó giúp những người như Phùng và Đẩu hiểu được nguyên do của những điều tưởng như vô lý. Bề ngoài đó là một người đàn bà quá nhẫn nhục, cam chịu, bị chồng thường xuyên hành hạ, đánh đập thật khốn khổ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, vậy mà vẫn nhất quyết gắn bó với lão đàn ông vũ phu ấy. Chỉ qua những lời giãi bày thật tình của người mẹ đáng thương đó mới thấy nguồn gốc mọi sự chịu đựng, hi sinh của bà là tình thương vô bờ với những đứa con: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có những người đàn ông ở thuyền để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa… phải sống cho con chứ không thể sống cho mình…”. Nếu hiểu sự việc một cách đơn giản, chỉ cần yêu cầu người đàn bà bỏ chồng là xong. Nhưng nếu nhìn vấn đề một cách thấu suốt sẽ thấy suy nghĩ và xử sự của bà là không thể khác được. Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no… trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”; “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn…”. Qua câu chuyện của người đàn bà càng thấy rõ: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng của cuộc sống.

Tư tưởng nghệ thuật đó của Nguyễn Minh Châu thấm sâu trong hầu hết các nhân vật của truyện ngắn: người đàn bà vùng biển, lão đàn ông độc ác, chị em thằng Phác, người nghệ sĩ nhiếp ảnh.

Tác giả chỉ gọi là “người đàn bà” một cách phiếm định. Tuy không có tên tuổi cụ thể, chỉ là một người vô danh như biết bao người đàn bà vùng biển khác, nhưng số phận con người ấy lại được tác giả tập trung thể hiện và được người đọc quan tâm nhất trong truyện ngắn này. Trạc ngoài bốn mươi, thô kệch, rỗ mặt, lúc nào cũng xuất hiện với “khuôn mặt mệt mỏi”, người đàn bà ấy gợi ấn tượng về một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ. Bà thầm lặng chịu đựng mọi đớn đau, khi bị chồng đánh “không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách trốn chạy”, bà coi đó là lẽ đương nhiên, chỉ đơn giản trong cuộc mưu sinh đầy cam go, trên chiếc thuyền kiếm sống ngoài biển xa cần có một người đàn ông khỏe mạnh và biết nghề, chỉ vì những đứa con của bà cần được sống và lớn lên. “Tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài” – một sự cam chịu nhẫn nhục như thế thật đáng để chia sẻ, cảm thông. Thấp thoáng trong hình ảnh người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha, đức hi sinh.

Có lẽ cuộc sống đói nghèo, vất vả, quẩn quanh bao nhiêu lo toan, cực nhọc đã biến “anh con trai cục tính nhưng hiền lành” xưa kia thành một người chồng vũ phu, một lão đàn ông độc ác. Cứ khi nào thấy khổ quá là lão đánh vợ, đánh như để giải tỏa uất ức, để trút cho sạch nỗi tức tối, buồn phiền: “lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Trong đời vẫn có những kẻ như thế, nói như Nam Cao trước kia, chỉ để thỏa mãn lòng ích kỷ, chúng tự cho mình cái quyền được hành hạ mọi người. Lão đàn ông “chân chữ bát”, “mái tóc tổ quạ”, “hai con mắt đầy vẻ độc dữ”, vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho chính những người thân của mình.

Trong một gia đình mà bố mẹ có chuyện lục đục, đáng thương nhất là những đứa trẻ. Chúng bị đẩy vào tình thế thật khó xử: biết đứng về phía ai, biết làm thế nào để trọn đạo làm con? Chị thằng Phác, một cô bé yếu ớt mà can đảm, đã phải vật lộn để tước con dao trên tay thằng em trai, không cho nó làm một việc trái với luân thường đạo lý. Chắc trong lòng cô bé tan nát vì đau đớn: bố điên cuồng hành hạ mẹ; chỉ vì thương mẹ mà thằng em định cầm dao ngăn bố… Cô bé lúc ấy là điểm tựa vững chắc của người mẹ đáng thương, cô đã hành động đúng khi cản được việc làm dại dột của đứa em, lại biết chăm sóc, lo toan khi mẹ phải đến tòa án huyện. Còn thằng Phác lại thương mẹ theo kiểu một đứa con còn nhỏ, theo cái cách một đứa con trai vùng biển: nó “lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt”, nó “tuyên bố với các bác ở xưởng đóng thuyền rằng nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh”. Mặc dù thật khó chấp nhận kiểu bảo vệ mẹ của nó, nhưng hình ảnh thằng Phác vẫn khiến người ta cảm động bởi tình thương mẹ dạt dào.

ADQuảng cáo

Vốn là người lính chiến từng vào sinh ra tử, Phùng căm ghét mọi sự áp bức, bất công, sẵn sàng làm tất cả vì điều thiện, lẽ công bằng. Anh thực sự xúc động, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tinh khôi của thuyền biển bình minh. Một người nhạy cảm như anh tránh sao khỏi nỗi tức giận khi phát hiện ra ngay sau cảnh đẹp chiếc thuyền ngoài xa là sự bạo hành của cái xấu, cái ác. Mới đầu, chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ và người vợ nhẫn nhục chịu đựng, Phùng hết sức “kinh ngạc”, anh “há mồm ra mà nhìn”, rồi sau như một phản xạ tự nhiên, anh “vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”. Hành động ấy nói được nhiều điều. Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, một khoảng cách đủ để tạo nên vẻ đẹp huyền ảo, nhưng sự thật cuộc đời lại ở rất gần. Đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời, bởi lẽ nghệ thuật chân chính luôn là cuộc đời và vì cuộc đời. Trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp, hãy là một con người biết yêu ghét vui buồn trước mọi lẽ đời thường tình, biết hành động để có một cuộc sống xứng đáng với con người.

Ở tác phẩm này, nét độc đáo trong xây dựng cốt truyện của Nguyễn Minh Châu là cách tạo tình huống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống. Nếu coi tình huống là sự kiện có ý nghĩa bộc lộ mọi mối quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách, đôi khi tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm, trong cuộc đời con người, thì với Phùng, việc chứng kiến lão đàn ông đánh vợ là một sự kiện như thế. Trước đó, Phùng nhìn đời bằng con mắt của một nghệ sĩ, anh rung động, say mê trước vẻ đẹp “trời cho” của thuyền biển sớm mai. Chính trong giây phút tâm hồn thăng hoa những cảm xúc lãng mạn nhất, anh bất ngờ chứng kiến đôi vợ chồng từ con thuyền “thơ mộng” bước xuống, rồi lão đàn ông đánh vợ một cách dã man và vô lý. Tình huống đó được lặp lại một lần nữa, Phùng không chỉ chứng kiến người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng mà còn thấy được thái độ, hành động của chị em thằng Phác trước sự hung bạo của cha với mẹ. Từ đó đến cuối truyện, Phùng đã có cách nhìn đời khác hẳn. Anh thấy rõ những cái ngang trái trong gia đình thuyền chài ấy, hiểu sâu thêm tính cách người đàn bà, chị em thằng Phác, hiểu sâu thêm bản chất người đồng đội của mình (Đẩu) và hiểu thêm chính mình. Tình huống truyện đã được Nguyễn Minh Châu đẩy lên cao trào và ngày càng xoáy sâu hơn nữa để phát hiện tính cách con người, phát hiện sự thật cuộc đời.

Ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn này cũng rất đáng chú ý. Người kể chuyện ở đây là nhân vật Phùng, hay nói đúng hơn, đó là sự hóa thân của tác giả vào nhân vật Phùng. Việc chọn người kể chuyện như thế đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường khả năng khám phá đời sống của tình huống truyện, lời kể chuyện trở nên khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục. Ngôn ngữ các nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người: giọng điệu lão đàn ông thật thô bỉ, tàn nhẫn với những từ ngữ đầy vẻ tục tĩu, hung bạo; những lời của người đàn bà thật dịu dàng và xót xa khi nói với con, thật đớn đau và thấu trải lẽ đời khi nói về thân phận của mình; những lời của Đẩu ở tòa án huyện rõ là giọng điệu của một người tốt bụng, nhiệt thành… Việc sử dụng ngôn ngữ rất linh hoạt, sáng tạo như thế đã góp phần khắc sâu thêm chủ đề- tư tưởng của truyện ngắn.

Có thể thấy cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm Nguyễn Minh Châu trước năm 1975 là cảm hứng anh hùng cách mạng, còn sau năm 1975 là cảm hứng về nhân cách con người, là hành trình “khám phá con người bên trong con người” (Bakhtin). Theo mạch cảm hứng ấy, năm 1982 Nguyễn Minh Châu viết truyện ngắn Bức tranh; trong ý nghĩ tự phán xét, nhân vật họa sĩ đã vẽ một bức chân dung tự họa nhằm thể hiện “khuôn mặt bên trong của chính mình”. Đáng lưu ý là, nếu trong truyện Bức tranh, Nguyễn Minh Châu hướng cái nhìn nghệ thuật vào thế giới nội tâm thì trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu lại hướng cái nhìn nghệ thuật ra thế giới bên ngoài, ra cuộc sống đời thường. Nếu truyện Bức tranh là sự tự nhận thức, tự phê phán của con người dưới ánh sáng của lương tâm, đạo đức, thì truyện Chiếc thuyền ngoài xa là sự nhận thức và phê phán cái xấu, cái ác trong cuộc sống thường ngày. Cả hai tác phẩm đều được viết dưới sự chỉ đạo của quan điểm nghệ thuật: chỉ ra mặt xấu, mặt tối để góp phần hoàn thiện nhân cách con người, làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Đặc biệt, truyện Chiếc thuyền ngoài xa mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thực sự sau vẻ ngoài đẹp đẽ của hiện tượng, thật đúng như Nguyễn Minh Châu từng khẳng định: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”.

Đề 4: Em hãy so sánh chi tiết nước mắt trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa và Vợ nhặt

Trong vô vàn những tác phẩm văn học Việt Nam, đề tài về người nông dân, người mẹ trong những hoàn cảnh gian khổ, nghèo đói vẫn chiếm số lượng lớn. Và “Vợ nhặt” – Kim Lân cùng “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu là những tác phẩm khá tiêu biểu thuộc đề tài đó. Hai tác phẩm của hai tác giả tưởng như hoàn toàn khác nhau lại cùng gặp nhau ở một chi tiết, đó là chi tiết

“Dòng nước mắt” “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt” (Vợ nhặt – Kim Lân) và “Thằng nhỏ cho đến lúc này vẫn chẳng hề hé răng, như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ xuống những dòng nước mắt” (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu)

Hai nhà văn đều thể hiện rõ tư tưởng nhân đạo, nhân văn, đó cũng là những điểm sáng trong sự nghiệp văn học của cả hai tác giả. Hai tác phẩm đều khắc họa tình người, tình mẹ và chi tiết “dòng nước mắt” chính là một phương tiện để biểu hiện.

Vợ nhặt là những trang văn mà Kim Lân kể về số phận, cuộc đời của những người nông dân nghèo trước cách mạng. Bà cụ Tứ là người mẹ nghèo, cao tuổi chỉ còn cậu con trai duy nhất là anh cu Tràng. Gia cảnh của bà cũng như biết bao gia đình khác lúc bấy giờ đó là sự đói kém, nghèo khó đến cùng cực. Vậy mà trong hoàn cảnh ấy, đứa con trai ngờ nghệch của bà đã “nhặt” về một cô vợ. Ban đầu bà cũng ngờ vực, ngạc nhiên rồi bất ngờ lắm. Nhưng khi nghe lời giới thiệu của cậu con trai “ Nhà tôi về làm bạn với tôi đấy u ạ” thì bà “ bỗng hiểu ra bao nhiêu là cơ sự”. Và rồi trong suy nghĩ chậm chập vì tuổi tác cua bà cụ Tứ “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. “Dong nước mắt “ chính là biểu hiện của nỗi đau khổ, tủi phận: con lấy vợ vào giữa ngày đói khiến bà lão vừa mừng lại vừa tủi và hơn hết là lo lắng vô cùng. Bà cụ Tứ đã ở tuổi gần đất xa trời, cuộc đời đã rất nhiều đau khổ, chồng và con gái mất, chỉ còn lại mẹ góa con côi, đắp đổi nuôi nhau qua ngày. Anh con trai thì lại chẳng sáng sủa để mong lấy được vợ, bà chỉ có mong mỏi lớn nhất là hy vọng gây dựng được gia đình cho con. Mong ước ấy giản đơn nhưng sao thật xa vời khi cảnh đói nghèo cứ vây lấy cuộc sống, hiện thực “chết đói như ngả rạ” khiến bà chẳng còn dám nghĩ đến mong mỏi ấy. Sau biết bao tháng ngày đau khổ của cuộc đời, dường như bà cụ Tứ đang ở mức tận cùng của bất hạnh trong hiện thực xót xa của nạn đói 1945 đó. Vậy mà bỗng nhiên con trai bà – anh cu Tràng đưa về một người phụ nữ, không lễ nghi, không thủ tục nhưng hai đứa con đáng thương ấy nên vợ nên chồng. Bà cụ Tứ ngổn ngang bao tâm trạng. Mừng vì “người ta có gặp bước khó khăn này người ta mới lấy con mình, con mình mới có vợ được”, nhưng mừng rồi bà lại tủi, bởi “người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, còn mình thì…”, giá như bà cụ có thể làm được “dăm ba mâm” thì có lẽ nỗi tủi hờn ấy sẽ vơi đi phần nào, nhưng trong nạn đói lúc bấy giờ thì đó thực sự là điều quá viển vông, xa xỉ. Và bao trùm lên tất cả là sự lo lắng của người mẹ “liệu chúng nó có nuôi nổi nhau, cuộc đời chúng nó có khá hơn cuộc đời vợ chồng bà trước kia không”. Trong những cảm xúc ngổn ngang ấy, “kẽ mắt kèm nhèm của bà cụ rỉ xuống những dòng nước mắt”.

Tác giả đã để cho dòng nước mắt ấy “rỉ” ra hiếm hoi bởi cả đời với toàn những năm tháng khốn khổ dường như bà cụ đã cạn khô nước mắt rồi. Nguyễn Khuyến trong bài Khóc Dương Khuê cũng đã từng viết “tuổi già hạt lệ như sương/Hơi đây ép lấy hai hàng chứa chan" hay Nam Cao khi miêu tả nước mắt của Lão Hạc “Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra”. Những năm tháng trải đời với biết bao cay đắng khiên cho họ dù đau đớn nhưng cũng đã cạn khô nước mắt , chai sạn với cuộc đời nên những dòng nước mắt chỉ là sự “rỉ” ra hiếm hoi mà thôi. Kim Lân đã để chân dung bà cụ Tứ hiện lên qua chi tiết “kẽ mắt kèm nhèm” – một bức chân dung đầy khổ hạnh của người nông dân lớn tuổi. Dòng nước mắt của bà cụ Tứ không chỉ là biểu hiện của nỗi đau khổ, tủi phận mà còn là biểu hiện của tình mẫu tử thiêng liêng, mừng hay tủi hay lo lắng cũng đều xuất phát từ tình thương con đến thắt lòng, từ trái tim nhân hậu của người mẹ. Có thể nói, chi tiết “dòng nước mắt” đã thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhan đạo sâu sắc. Chỉ “dòng nước mắt” của bà cụ Tứ nhưng ta có thể thấy được tình cảnh xã hội những năm trước cách mạng, trong nạn đói 1945. Đặc biệt, đó còn là sự cảm thông thương xót những người nông dân khốn khổ, là sự tố cáo xã hội, tố cáo giai cấp thống trị đã đè nén áp bức người dân. Nhưng đặc biệt nhân đạo ở đây là sự ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn người mẹ mà Kim Lân dành nhiều tâm huyết vào ngòi bút của mình. Chi tiết “dòng nước mắt” còn mang giá trị nghệ thuật đặc sắc. Dù chỉ là chi tiết nhỏ nhưng nội dung ý nghĩa truyền tải lại rất lớn, diễn tả chân thực, sinh động nội tâm nhân vật.

Còn lý do vì sao mà tác phẩm của Nguyễn Minh Châu lại có sự xuất hiện của “Dòng nước mắt”. Chiếc thuyền ngoài xa là tác phẩm mà ông nói về cuộc đời của người dân trong thời kì sau cách mạng, thời kì còn nhiều u tối, khó khăn. Phùng – một nghệ sĩ luôn đi tìm cái đẹp đã vô tình bắt gặp và rồi đắm say trước hình ảnh của chiếc thuyền mờ ảo hiển hiện trên sông. Nhưng anh đâu biết rằng, đằng sau đó là bi kịch bạo lực của một gia đình. Người đàn bà hàng chài hằng ngày phải gánh chịu những trận đòn dã man của người chồng – người chịu áp lực mưu sinh nuôi sống cả một gia đình đến 9, 10 người con trong hiện thực đói nghèo. Và rồi, thằng Phác, con trai chị đã xông đến đánh chính cha mình để bảo vệ cho mẹ để rồi nhận hai cái bạt tai ngã dúi xuống cát “Thằng nhỏ cho đến lúc này vẫn chẳng hề hé răng, như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ xuống những dòng nước mắt”Nếu chi tiết “dòng nước mắt” của bà cụ Tứ là biểu hiện của nỗi đau khổ, tủi phận, xót xa thì “dòng nước mắt” của người đàn bà hàng chai là biểu hiện của sự đau đớn bởi hoàn cảnh gia đình bế tắc. Gia cảnh nghèo khó, thuyền chật lại đông con chín mười đứa khiến khó khăn chồng chất khó khăn, số lượng cá bắt được thì không đổi nhưng nhu cầu thì ngày càng tăng, con ngày một lớn hơn khiến gia đình người đàn bà hàng chài càng túng bách, bế tắc. Điều đó làm người chồng phải tìm cách giải tỏa nhưng lại giải tỏa bằng cách đánh vợ, bằng bạo lực gia đình, một cảnh bạo lực không lối thoát, không biết bao giờ có thể kết thúc bởi chỉ khi nào gia đình ấy thoát khỏi đói nghèo, tìm hướng đi cho riêng mình thì mới hy vọng thoát khỏi thảm cảnh ấy. Nhưng điều đó liệu có xảy ra được không khi cái nghèo ngày một lớn, cảnh bạo lực ngày càng trầm trọng. Kéo theo đó là tội ác trái luân thường đạo lí của thằng con và nỗi lo lắng của người đàn bà về sự phát triển nhân cách lệch lạc của những đứa trẻ tội nghiệp thường xuyên phải chứng kiến cảnh cha chúng đánh mẹ một cách không thương tiếc. Và “dòng nước mắt” một lần nữa là biểu hiện của tình mẫu tử thiêng liêng. Chị khóc vì thương con. Khi chồng đánh, chị không hề có bất kì phản ứng nào, không chạy trốn, không chống trả chỉ đứng im chịu đòn, cam chịu đến mức trong con mắt của Phùng và Đẩu thì sự cam chịu ấy là bắt nguồn từ việc thất học, từ sự u mê tăm tối. Thế nhưng trước hành động của thằng con, nó lao đến bố mình như một viên đạn rồi đánh bố mình và sau đó nhận hai cái bạt tai của bố ngã dúi xuống cát, chị như sực tỉnh. Hành động của thằng con như một viên đạn xuyên qua tâm hồn người đàn bà để thức dậy nỗi đau tận cùng. Chị khóc, chị mếu máo, vái lạy con rồi lại buông ra…Vô cùng đau đớn! Chị không chỉ cảm thấy thương con, xót xa cho con mà còn cảm thấy có lỗi với con nữa. Thân là một người mẹ nhưng chị chẳng thể che chắn, bảo vệ cho con, mang đến cho chúng tuổi thơ trong trẻo yên bình. Những cảnh bạo lực gia đình cứ tàn nhẫn ăn sâu vào kí ức hàng ngày của chúng, cảnh cha mẹ bất hòa đã làm lệch lạc những suy nghĩ, nhận thức và hành động của những đứa trẻ tội nghiệp. Chị nhận lỗi về mình, nhận lỗi vì không thể nuôi dạy những đứa con cho tốt. Ai dám chắc rằng khi chúng lớn lên sẽ không trở thành những hung thần bạo lực, những hung thần thậm chí còn kinh khủng hơn bố nó trước kia. Chỉ một chi tiết “dòng nước mắt” mà truyền tải nội dung ý nghĩa thật lớn, mang đến cho người đọc cái nhìn sâu thẳm vào nội tâm nhân vật, đồng thời mang giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Nó đã phơi bày tình cảnh xã hội những năm sau chiến tranh và đêm trước đổi mới 1986. Một hiện thực khổ ải vì nghèo đói, vì tăm tối, vì bạo lực…

Con mắt nhân đạo của Nguyễn Minh Châu được thể hiện qua sự cảm thông, thương xót cho số phận của người đàn bà hàng chài hay cũng như biết bao người phụ nữ đáng thương, tội nghiệp như vậy trong xã hội đương thời. Bên cạnh đó, ông còn dùng ngòi bút của mình cất lên lời trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn của người mẹ. Trong nỗi đau, người mẹ vẫn cam chịu, vẫn nhẫn nhịn, chấp nhận cho chồng đánh để chồng giải tỏa phần nào áp lực từ cuộc sống đói nghèo để rồi tiếp tục cùng mình bươn chải, mưu sinh lo toan cho gia đình, nuôi lớn các con.

Chi tiết “dòng nước mắt” của cả hai tác phẩm đều có những điểm chung. Đó đều là những dòng lệ của người phụ nữ, của người mẹ trong hoàn cảnh nghèo đói và khốn khổ, là “giọt châu của loài người”, giọt nước chan chứa tình người trào ra từ tâm hồn những bà mẹ giàu lòng vị tha, đức hy sinh. Bên cạnh đó, hai chi tiết đều góp phần thể hiện giá trị nội dung và nhân đạo của tác phẩm: phản ánh hiện thực xã hội trong những thời điểm khác nhau, thể hiện tấm lòng thương cảm đối với bi kịch của con người và sự trân trọng vẻ đẹp tình đời, tình người của tác giả và cho thấy ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc của hai nhà văn qua việc lựa chọn chi tiết đặc sắc.

Hoàn cảnh riêng của hai nhân vật khác nhau nên dòng nước mắt cũng mang nỗi niềm riêng. Chi tiết “dòng nước mắt” của bà cụ Tứ gắn với tình huống anh cu Tràng “nhặt” được vợ, bà cụ tuy cảm thấy ai oán, xót xa và thương cho số kiếp đứa con mình và cũng xót tủi cho chính thân phận mình nhưng phía trước bà cụ là ánh sáng của hạnh phúc nhen nhóm. Còn “dòng nước mắt” của người đàn bà hàng chài chan chứa sau sự việc thằng Phác đánh lại bố để bảo vệ mẹ và hoàn cảnh éo le, ngang trái của gia đình chị diễn ra trước mắt nghệ sĩ Phùng. Chị cảm thấy đau đớn, nhục nhã vì không thể giấu được bi kịch gia đình, vì thương xót, lo lắng cho con. Tội nghiệp thay khi phía trước chị là một màu mù xám, bế tắc. Để khắc họa chi tiết “dòng nước mắt”, Kim Lân sử dụng hình thức diễn đạt trực tiếp, giản dị còn Nguyễn Minh Châu dùng cách diễn đạt ví von, hình ảnh.

Cùng gặp nhau ở những điểm chung bởi cả Kim Lân và Nguyễn Minh Châu đều cùng hướng đến đề xuất giải pháp cách mạng từ nỗi đau của chính nhân vật và cùng ca ngợi vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam truyền thống. cùng là nhà văn nhân đạo và hiện thực sâu sắc. Thế nhưng hoàn cảnh va tương lai khác bởi các chi tiết được tạo nên trong những bối cảnh khác nhau. Kim Lân viết sau khi cách mạng thành công viết nên từ cảm quan lạc quan Nguyễn Minh Châu nhìn trong hiện tại, ông không thể chắc chắn rằng liệu tương lai có tốt đẹp hơn với người phụ nữ hàng chài đáng thương không. Đồng thời phong cách mỗi tác giả luôn có sự khác biệt không trộn lẫn. Vì thế cùng là chi tiết dòng nước mắt nhưng mỗi ngòi bút lại có cách tiếp cận riêng, tạo ấn tượng riêng nơi người đọc.

Chi tiết “dòng nước mắt” ở hai tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân và Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu đều đạt thành công cả về nội dung và nghệ thuật. Tất cả mang đến những màu sắc riêng biệt để người đọc tìm đến văn học, tìm đến hiện thực, tìm đến các giá trị nhân văn với nhiều cánh cửa khác nhau.

Đề 5: Phân tích hình ảnh người đàn bà hàng chài khi ở tòa án huyện

Nguyễn Minh Châu là gương mặt văn học tiêu biểu của Việt Nam thời chống Hoa Kỳ, vừa là người "mở đường ưu tú, tài hoa" (Nguyên Ngọc) cho sự nghiệp đổi mới văn học. tìm kiếm. Nikulin nhận xét "Nhiều nhân vật của Nguyễn Minh Châu những năm 1980 đã được Nguyễn Minh Châu xây dựng và thể hiện trong không khí cách mạng". Chúng ta có thể nhận thấy điều này qua nhân vật Nguyệt trong "Trăng sáng". Ở chặng cuối cùng, truyện Con thuyền ngoài xa mang nhiều cảm hứng sáng tạo hơn và triết lý sâu sắc hơn. Nhưng tầm nhìn sáng tạo của ông về việc "đi tìm từng hạt ngọc trong lòng con người mênh mông" dường như không hề thay đổi. Nhân vật chính của chặng này của truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" là một người đánh cá. Tác giả bộc lộ bản thân từ nhân vật này và rút ra những triết lý trong nghệ thuật và cuộc sống.

Khi đọc "Chiếc thuyền ngoài xa", chúng ta thấy nhân vật người đánh cá do tác giả thể hiện là một phụ nữ trạc 40 tuổi. Và khi nói về nhân vật này, Nguyễn Minh Châu không gọi anh ta với một cái tên cụ thể là ai. không có người thân, chỉ thỉnh thoảng được kêu: "mẹ", "ngư ông". Không phải tự nhiên mà tác giả không đặt tên cho nhân vật của mình, đó là một dụng ý nghệ thuật sâu sắc: ông muốn nói rằng đây chính là một. người phụ nữ yếu đuối, bất hạnh và cần được thông cảm, chia sẻ. Người đàn bà đánh cá có hình hài của một người phụ nữ miền biển quen thuộc, với nhiều đường nét sần sùi, vết sẹo trên khuôn mặt nhợt nhạt, hốc hác và mỏi mệt vì một đêm dài vất vả kéo "lưới". Đây có lẽ là hình ảnh nói lên gánh nặng của cuộc đời nhiều sóng gió. ở biển anh đã cướp đi tất cả thứ của anh: tình yêu, sự lạc quan và đầy nghị lực. Vẻ đẹp ấy còn thể hiện cả qua trang phục, đó là tấm lưng áo đã sờn, rách tơi tả và nửa thân dưới ướt sũng. nó cũng được thể hiện ở hình thức: "ngại, xấu hổ", "chọn một góc để ngồi" khi hầu tòa. Thậm chí, khi đã thành phu nhân, chị Dậu phải đến lần thứ hai thì chị mới "ra mép ghế thu mình xuống". Có thể đó là một sự nhầm lẫn của con người. Người nghèo luôn thấy sự hiện diện của mình trên cuộc đời này là vô nghĩa, họ cảm thấy bất lực, xem thường số phận, vì vậy muốn hạn chế những rắc rối và phiền phức do mình có thể gây nên cho nhiều người. vòng quanh.

Nguyễn Minh Châu không chỉ đi sâu vào tạo hình nhân vật mà đi sâu vào câu chuyện thực tế về cuộc đời bi kịch của người đàn bà hàng chài, ngòi bút thấm đẫm tinh thần nhân văn. Trong nỗi bất hạnh mà người phụ nữ khiến người đọc mang tới, ấn tượng sâu sắc nhất là thái độ phục. Khi lái xe qua nhà kho bị hỏng và khi tiếp cận chiếc xe, người phụ nữ "dừng lại nhìn ra trước rồi giơ tay lên gãi hay xoa đầu, nhưng từ đó nhìn vào trong, bạn có thể thấy đó là một nơi rất quen thuộc. Một sự quen thuộc đáng sợ với chị là việc đánh đập của chồng: nhẹ thì ba ngày, nặng thì năm ngày. Như một tên tội phạm đang chờ đợi điều không qua được, đôi mắt gục xuống đôi chân mỏi nhừ. Đó là thái độ của một người làm tròn nghĩa vụ một cách bình tĩnh, không than vãn, không oán trách và không tức giận. Người đánh cá không chỉ bị hành hạ về thể chất đến kiệt sức sau một đêm kéo lưới mà còn chịu đựng nỗi đau bị chồng đánh đập dã man hoặc bị tra tấn dã man. hãy nỗi đau tinh thần, sự non nớt và nỗi sợ của những đứa con bị tổn thương khi chứng kiến ​​mặt tối của cuộc đời. Cần miêu tả hình ảnh người mẹ vừa khóc vừa phải "vỗ tay nhiều lần cho con biết không làm trái lương tâm".

Nguyễn Minh Châu bày tỏ sự xót thương đối với những đau đớn cùng cực của người đánh cá. Nhưng anh vẫn mang gánh nặng cơm ăn áo mặc, cuộc sống nghèo bị cuốn vào vòng quay khó khăn. Trước năm 1975, những khi biển động, cả gia đình thường ăn đĩa xương rồng luộc chấm muối. Khi cuộc cách mạng làm cuộc sống giảm bớt khó khăn, nhưng mối lo về thực phẩm lại tiếp tục. Nguyễn Minh Châu, từ thân phận của một cô gái đánh cá, muốn gợi cho người đọc những suy nghĩ: Cuộc chiến chống nghèo đói, lạc hậu, bạo lực sẽ mạnh mẽ và quyết liệt hơn cuộc chiến chống giặc ngoại xâm. Chỉ trừ khi thoát được nghèo đói, nếu không thì con người sẽ vẫn phải sống chung với cái xấu, cái lạc hậu. Chúng ta đã đổ xương máu bao năm mới giành được độc lập, tự do trong cuộc đấu tranh giành sự sống của toàn nhân loại. Nhưng chúng ta sẽ tiếp tục làm gì trong cuộc đấu tranh giành quyền sống của mỗi con người, cung cấp cơm ăn, áo mặc và ánh sáng văn hóa cho thấy có rất nhiều người đang sống trong sự đói nghèo. Bẩn thỉu. Nếu đã từng yêu thích nhân vật nữ trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu thì sẽ không ở đâu yếu tố "nữ cường" thăng hoa một cách đẹp đẽ như ở người đàn bà đánh cá này. Vẻ đẹp tiềm ẩn mà người đọc cảm nhận được trước tiên ở người đàn bà hàng chài là vẻ đẹp của sự hiểu biết. Đẩu và Phùng trở thành những kẻ ngốc nghếch, nông nổi khi nói chuyện với một người đàn bà đánh cá quê mùa, ít học không hiểu hết lẽ đời. Đẩu và Phùng coi người chồng mình là kẻ ác nhất, những người đàn bà hàng chài đã cho chị hiểu sâu về cuộc đời. Chị kể: Chồng chị vốn là người con trai tử tế, hiền lành nhưng khi vướng vào vòng lao lý, bế tắc rồi trở nên bệnh hoạn, thô lỗ. Đó là một cái nhìn tinh tế, một sự hiểu biết về quy luật của cuộc sống. Anh cũng chỉ mặt Đẩu và Phùng thiếu thật: "Lòng các anh không phải là công nhân nên không hiểu được phẩm chất của người thợ".

Người đàn bà đánh cá đã chỉ rõ một sự thật cay đắng: Họ cần một người chống lại kẻ thù cho dù dã man và tàn bạo đến thế nào. Như vậy, cô đã cho Phùng và Đẩu thấy được thách thức kép của cuộc mưu sinh trên biển với thân phận người phụ nữ luôn khó khăn và tiềm ẩn nhiều hiểm nguy đang rình rập. Nữ ngư dân cũng gây chú ý bởi sự thất bại trong hoạt động của Đảng và chính quyền cách mạng. Bà cho rằng, dù cách mạng cách mạng đã cho đất đai nhưng không có ai sinh sống ở đấy và họ phải từ bỏ nghề bởi vì sự tồn tại của gia đình gắn liền với nghề. Tiếng thở dài của chị Dậu, câu nói đầy lo âu và băn khoăn của Phùng, nỗi thất vọng của bà khi cả hai nhận thấy rằng các giải pháp bắt nguồn từ lòng nhân ái và mục đích cao đẹp của gia đình là vô nghĩa. Làm điều này đã tạo ra một sự khác biệt với người ngư dân bình thường, hiểu đời, hiểu người, hiểu cái có thể và cái không. Chiều sâu của tác phẩm làm người đọc say đắm nhưng cũng làm đau đáu một kiếp người. Người đánh cá chấp nhận việc đánh đập dã man của chồng bởi vì anh ấy ngu. Có lỗi gì với chồng, chị không chỉ cần một người đàn ông trên thuyền và phải chịu đựng việc bị đánh đập như cách để giúp chồng quên đi nỗi khổ, nỗi đau chất chứa trong lòng. người đánh giày. con tim. Đó là hành động của một người hiểu rõ trách nhiệm và nghĩa vụ của bản thân và cố gắng hoàn thành chúng dù nghĩa vụ và nghĩa vụ của người chồng là không hợp lý.

Bên cạnh việc hiểu nỗi đau của chồng, người ngư dân cũng mang những suy nghĩ "ước gì mình sinh ra" hay "ước gì mua được con thuyền lớn hơn". Đẩu và Phùng dù ngạc nhiên và khó chịu với tính phục tùng, nhường nhịn của chồng, nhưng họ cũng bất ngờ trước tấm lòng nhân ái, khoan dung của con người khi nhận thấy kết quả của thái độ này. người đánh cá. Làm mẹ được chị em nhận thức rõ như một thiên chức của người phụ nữ "chúng ta là những người phụ nữ và những người lái đò nên phải sống cho con mà không phải sống với bản thân". Nhưng tình thương yêu con quá mức đã khiến cô phải chịu sự bạo hành của chồng chỉ bởi cô mong muốn có một người đàn ông tốt và biết chăm lo gia đình mình để nuôi dạy các con thành người. Cũng lo gia đình bạo lực, bị chồng lôi lên bờ đánh và sợ con làm điều dại dột với cha nên người đàn ông này đã phải thả cậu con trai bé bỏng của anh vào bờ. Tôi muốn về trần gian để sống với ông mình. Ở người phụ nữ giản dị đó có "bề dày hiểu biết lẽ đời bên cạnh cái đau đớn cũng như tình thương yêu của các con dường như không hề xuất hiện". Khi chứng kiến bức tượng tàn ác ấy, người phụ nữ "khóc thét" tên con và "chắp tay lạy tạ" vì sợ con chết những người khác cũng giận dữ ôm vào con giữa bóng tối. sự đau khổ. Khóc cho con, khóc lòng mẹ đau khổ và nhục nhã. Anh đau đớn khi anh đã làm hại con trai tôi và cũng là lý do khiến anh bị thương. Trong các giây phút cuối cùng trên thuyền, "gương mặt xám bỗng nở bừng thành một nụ cười". Đây là ánh sáng của tình mẹ, là vẻ đẹp của cuộc sống, tất cả niềm vui và cái đau của nó được bắt nguồn từ "khi tôi sung sướng nhất, khi nhìn thấy con mình đã ăn xong".

Qua hình tượng người đàn bà hàng chài đã gợi nên một người phụ nữ Việt Nam đôn hậu, dịu dàng và đảm đang, có đức hy sinh như "biết hy sinh mấy lời" của Tố Hữu. Người phụ nữ này đã lưu lại ấn tượng sâu đậm bao năm sau, khi nhớ về tấm "ảnh con thuyền ngoài khơi" và lúc nào nghệ sĩ Phùng cũng thấy người phụ nữ đó đã đi qua từ bức ảnh trong đám đông. đồ đồng. Nguyễn Minh Châu là hình ảnh của những con người nghèo khổ không thấy gì trong cuộc sống giản dị thường ngày. Họ đấu tranh với nhiều thứ, không phải cho bản thân mà còn cả những người thân yêu thương của họ.

Với nhiều nét đẹp về ngoại hình đến cử chỉ, lời nói và hành động. Nhân vật người đàn bà hàng chài đã thành biểu tượng không thể phai để Nguyễn Minh Châu chuyển tải tư tưởng văn hóa sâu xa của ông. Màu cho các câu chuyện cổ tích. Cảm thông, thương xót trước những số phận éo le của biết bao con người đang sống cảnh nghèo đói, cơ cực và tàn nhẫn. Màu bày tỏ niềm tin, trân trọng các phẩm chất cao đẹp về tâm hồn, nhân cách của một con người biết bao dung và độ lượng.

Đề 6: Phân tích giá trị hiện thực trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa

Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa là một minh chứng tiêu biểu, thế hiện những đổi mới của Nguyễn Minh Châu trong cách nhìn hiện thực. Tác phẩm được viết trong giai đoạn sáng tác thứ hai của nhà văn (những năm 80).

Đọc tác phẩm Nguyễn Minh châu có thể hình dung khá rõ quá trình vận động về tư tưởng, tình cảm cũng như trăn trở, tìm tòi đổi mới cách tiếp cận cuộc sống là bút pháp sáng tạo với những đóng góp đáng trân trọng. Sau chiến tranh, sau không khí tráng ca có phần lí tưởng một thời mà cả nước hướng ra mặt trận, khi hòa bình lập lại, mọi người mới có điều kiện bình tâm để nhìn rõ hơn những góc khuất của đời thường, những phức tạp mới nảy sinh trong đời sống con người.

Đằng sau bức ảnh chụp con thuyền rất đẹp, cái đẹp ngoại cảnh tuyệt đỉnh mà người phóng viên thu được ẩn chứa một cuộc sống vật lộn với những luồng tư tưởng khác nhau mà không gì thỏa hiệp hay giải quyết một cách dễ dàng.

Nhân vật trung tâm trong tác phẩm là người phụ nữ. Trong con người xấu xí, lầm lụi cam chịu ấy còn có một con người khác mà ta không hay biết. Chị có cái nhìn mà chỉ người trong cuộc mới thấy, cái nhìn đó gắn với thực tế: lo lắng cho số phận của đứa con cho cuộc lênh đênh trên biển.

Như vậy, sau chiến tranh trở về, quan tâm hơn đến đời sống cá nhân của con người, Nguyễn Minh Châu đã khám phá ra những bão tố của cuộc sống gia đình. Nhưng sự giải quyết những mâu thuẫn của cuộc sống thực tại (gia đình người dân chài) không hề dễ dàng. Bởi vì sự việc, con người tôn trọng những mối quan hệ đa chiều, hết sức phức tạp.

Cái mới trong cách nhìn của Nguyễn Minh Châu: Ông đã thu nhỏ ống kính quay của mình trong phạm vi cuộc sống gia đình, một nội diện hẹp hơn nhưng lại mở ra nhiều điều lớn lao, sâu sắc. Trong bức tranh nhỏ, chứa đựng tất cả các vấn đề xã hội. So sánh với Mảnh trăng cuối rừng - truyện ngắn viết trong thời kì đấu tranh chống Mĩ ở miền Bắc 1970, lúc này con người, cuộc sống mang vẻ đẹp lí tưởng vì yêu cầu của thời đại. Nhà văn cần khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp, cái thiện, cái cao cả với cái xấu xa, thấp hèn... Trước sau, Nguyễn Minh Châu vẫn là một con người suốt đời đi săn tìm cái đẹp, tìm cái "hạt ngọc" ẩn sâu trong tâm hồn con người đó là "mảnh trăng cuối rừng", là "chiếc thuyền ở ngoài xa", song đã có sự đổi thay trong cách nhìn về hiện thực vì cuộc sống và tâm thế sáng tạo.

Về nghệ thuật, sự sáng tạo tình huống để nhân vật va chạm với suy nghĩ của các nhân vật khác, cũng giống như Bức tranh, truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa tiếp tục sự khám phá cuộc sống ở cách nhìn đa diện, phức tạp về con người. Về những số phận, những cảnh đời.

Từ thiên hướng khai thác hiện thực đời sống thuận chiều, một chiều trước 1975, với những tác phẩm đậm đà chất lãng mạn cách mạng và sử thi, những tác phẩm ở chặng sáng tác thứ hai của Nguyễn Minh Châu trở về với chủ nghĩa hiện thực tỉnh táo nhằm khám phá những phức tạp mới nảy sinh sau chiến tranh. Sự đổi mới trong cách nhìn hiện thực, khát vọng của mình về khả năng tác động kì diệu của văn học đối với đời sống và con người; đặt vấn đề về mối quan hệ giữa văn học và đời sống.

Đề 7: Về nhân vật Phùng trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, có ý kiến cho rằng, nét nổi bật ở người nghệ sĩ này là một tâm hồn nhạy cảm và say mê cái đẹp. Ý kiến khác thì nhấn mạnh: vẻ đẹp sâu xa của nghệ sĩ Phùng chính là một tấm lòng trăn trở, lo âu về thân phận con người. Anh/chị có suy nghĩ gì về những ý kiến trên?

Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam thời chống Mĩ, đồng thời là người mở đường xuất sắc cho công cuộc đổi mới văn học sau năm 1975. Ở giai đoạn trước, ngòi bút của ông theo khuynh hướng sử thi, thời kì sau chuyển sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh , có nhiều đổi mới trong nghệ thuật viết truyện. “Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Minh Châu ở thời kì sau. Tác phẩm kể về chuyến đi thực tế của Phùng- một nghệ sĩ nhiếp ảnh, qua dó thể hiện cách nhìn sâu sắc của tác giả về cuộc sống và sự băn khoăn về thân phận con người. Về nhân vật Phùng trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, có ý kiến cho rằng, nét nổi bật ở người nghệ sĩ này là một tâm hồn nhạy cảm và say mê cái đẹp. Ý kiến khác thì nhấn mạnh: vẻ đẹp sâu xa của nghệ sĩ Phùng chính là một tấm lòng trăn trở, lo âu về thân phận con người.

Ý kiến trên là ý kiến đúng đắn. Nét nổi bật ở người nghệ sĩ này là một tâm hồn nhạy cảm và say mê cái đẹp. Phùng có khả năng khám phá, phát hiện tinh tế và sự rung động mãnh liệt trước những vẻ đẹp phong phú trong cuộc sống. Vẻ đẹp sâu xa của nghệ sĩ Phùng còn chính là một tấm lòng trăn trở, lo âu về thân phận con người. Mối quan tâm thường trực của anh đến số phận con người, nhất là những mảnh đời bất hạnh, thái độ bất bình trước những ngang trái cuộc đời.

Tình huống truyện trong tác phẩm là tình huống nhận thức, một tình huống bất ngờ và đầy nghịch lý. Tình huống nhận thức này là được dành cho nhân vật Phùng. Phùng là nghệ sĩ nhiếp ảnh, theo yêu cầu của trưởng phòng, anh tới một vùng biển từng là chiến trường xưa của anh để chụp những bức ảnh cho tấm lịch nghệ thuật thuyền và biển. Tại đây anh đã nhận thức được nhiều điều. Cảm xúc của nhân vật này qua những phát hiện của mình đã thể hiện nội tâm cũng như suy nghĩ của anh, giúp người đọc cảm nhận vẻ đẹp nơi con người này.

Trước hết, anh là người có tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm và say mê cái đẹp. Anh đã khám phá ra bức tranh toàn bích. Sau mấy buổi sáng "phục kích", anh đã chụp được "cảnh đắt trời cho". Đó là cảnh ban mai vùng ven biển, với "mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào". Với tâm hồn nghệ sĩ của mình, anh đắm say, ca tụng cảnh đẹp như "bức tranh mực tàu của danh họa thời cổ". Rồi anh cảm thấy tràn ngập niềm hạnh phúc, bối rối, trái tim như có gì đó bóp thắt vào". Anh thấy được cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn, cảm nhận được chân - thiện - mĩ của cuộc đời. Anh cảm thấy tâm hồn mình như được thanh lọc, trở nên trong trẻo và thanh khiết. Từ đó, anh nhận thức "bản thân cái đẹp là đạo đức". Bằng con mắt và tâm hồn nghệ sĩ của mình, anh đã đưa đến cho người đọc một quan niệm về cái đẹp. Đó chính là cái đẹp là phải có tác dụng thanh lọc tâm hồn, hướng con người đến cái hoàn mĩ.

Nhận thức thứ hai của Phùng là về bạo lực gia đình, qua đó bộc lộc những trăn trở, suy tư của Phùng về cuộc sống con người. Từ chiếc thuyền đẹp như mơ, Phùng thấy bước ra một đôi vợ chồng làng chài mệt mỏi, xấu xí, thô kệch.. "Người đàn bà đứng lại, đưa cặp mắt nhìn xuống chân". " Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy, dùng cái thắt lưng quật tới tấp lên lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến vào nhau ken két. Cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn "Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết đi cho ông nhờ". Người đàn bà có vẻ cam chịu nhẫn nhục không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy. Bạo lực trong gia đình thuyền chài ấy diễn ra thường xuyên "Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng". Bạo lực gia đình là vấn đề tồn tại trong xã hội. Bước sang thế kỉ XXI chúng ta vẫn chưa dứt điểm được. Ở đâu có bạo lực gia đình thì nạn nhân của nó là người vợ, người mẹ và những đứa con tội nghiệp. Bạo lực là dấu hiệu của sự đau khổ, rạn nứt của hạnh phúc gia đình. Nó làm tổn thương bao mối quan hệ của đời sống tình cảm con người

Bạo lực gia đình lại diễn ra ngay sau chiếc xe dò phá mìn của mĩ trên bãi cát. Phải chăng cuộc chiến đầu giành độc lập tự do ta đã giải quyết được trọn vẹn, mang lại niềm vui cho mọi người. Nhưng sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng còn biết bao vấn đề đặt ra: Đói kém, bệnh tật, bạo lực gia đình...

Từ sự thật phũ phàng trên bãi biển về chiếc thuyền đánh ca đẹp như mơ, nghệ sĩ Phùng đã dần dần vỡ ra bao điều về cuộc sống của những người dân chài lưới. Biết bao cảnh đời cứ phơi bày ra trước mắt: Một người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ. Người đàn ông đi sau. Tấm lưng rộng và cong như một con thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ. Cặp vợ chồng làng chài là nạn nhân của cái nghèo khổ, vất vả lao động cật lực mà vẫn ngặt nghèo vì miếng cơm manh áo vì đông con. Người đàn bà thú nhận: "Giá tôi đẻ ít và chúng tôi sắm được cái thuyền rộng hơn". Thì ra đẻ nhiều, thuyền nào cũng từ mười đến hơn mười đứa. Đây là nguyên nhân của sự đói nghèo. Rồi thiên tai, trời làm động biển "Vợ chồng con cái phải ăn xương rồng chấm muối". Cái lí ở đời "Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn, cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống như mình trên đất được". Do con người, do thiên tai do cái lẽ ở đời đã ăn sâu, bám rễ hàng ngàn đời nay mà người đàn bà phải chịu đau khổ. Người đàn ông vì vất vả cực nhọc, không biết đổ cái bực tức, uất ức vào đâu, chỉ còn biết trút lên người vợ.

Cậu bé Phác thương mẹ nhưng hành động liều lĩnh, thiếu suy nghĩ. Nó chỉ nghĩ thương mẹ bị đánh mà sẵn sàng bỏ quên tình phụ tử. Xét cho cùng, Phác cũng là nạn nhân của bạo lực gia đình. Cứ xem cử chỉ của nó thì thấy: "Cái thằng nhỏ lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ lên khuôn mặt người mẹ như muốn lau đi những giọt nước mắt". Hành động nhất thời của Phác "Như viên đạn" bắn vào người bố và lúc này "đang xuyên qua tâm hồn" người mẹ. Tình cảnh thật đau lòng. Làm thế nào để xóa đi những chuyện đau lòng trong gia đình này.

Phùng còn có nhận thức về cách giải quyết tấn bi kịch gia đình. Cách giải quyết của chánh án tòa án huyện là: Gọi người đàn bà tới cơ quan và nói bằng giọng giận dữ: "Chị không sống nổi với lão vũ phu ấy đâu". Cách giải quyết này tuy đứng về phía người đàn bà nhưng thiếu thực tế. Đáng lẽ phải tìm hiểu nguyên nhân, phân tích cụ thể, nắm bắt yêu cầu nguyện vọng. Cách giải quyết này thực sự chưa ổn. Không thể áp dụng lí thuyết sách vở mà phải căn cứ vào thực tế đời sống. Cách gợi ý của Đẩu làm cho căn phòng " lồng lộng gió biển tự nhiên bị hút hết không khí trở nên ngột ngạt". Cảm giác của Phùng thấy như vậy. Pháp luật phải gắn liền với đạo đức, không thể áp dụng tùy tiện. Giải quyết li hôn càng làm cho gia đình rạn nứt và tan vỡ. Những đứa con rồi sẽ ra sao? Những người làm ăn lam lũ khó nhọc ra khơi vào lộng cần phải có bàn tay của người đàn ông. Người đàn ông là trụ cột trong nhà.

Cuối truyện Đẩu đi gặp người đàn ông. Phùng đi gặp thằng Phác. Kết quả như thế nào, tác giả còn bỏ ngỏ. Chỉ biết bức ảnh anh chụp có chiếc thuyền lưới vó và suy nghĩ của Phùng "bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là người đàn bà vùng biển cao lớn với đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm". Phải chăng đây là sự trăn trở trước cuộc sống còn nhiều điều khó khăn, vất vả của người làm nghệ thuật. Đó là mối quan hệ giữa văn chương với cuộc đời.

Truyện Chiếc thuyền ngoài xa qua những phát hiện của Phùng về vẻ đẹp của thiên nhiên, về sự thật cay đắng, đầy bi kịch, nghèo khổ của những con người lao động bằng nghề chài lưới, đã bộc lộ những lo lắng, trăn trở của nhà văn về nhân cách, đời sống con người, bộc lộ lòng thương cảm, trắc ẩn, trân trọng những vẻ đẹp trong tâm hồn người dân lao động. Truyện đậm chất tự sự, triết lý, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu.

Đề 8: Cách nhìn cuộc sống và con người của Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa

Có những hình ảnh thoạt mới nhìn thì đẹp, thậm chí lại rất đẹp, nhưng nếu nhìn kĩ bên trong, đi sâu vào bản chất của nó thì hoàn toàn ngược lại. Cuộc sống nhiều khi thường “đánh lừa” ta như thế. Phải có con mắt tinh tường nhìn thấu gan ruột cuộc sống để khám phá, phát hiện thì mới mong tìm ra đúng bản chất của nó. Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu là một truyện ngắn như vậy.

Chiếc thuyền ở ngoài xa mới trông thật đẹp, và càng đẹp hơn trong mắt người nghệ sĩ nhiếp ảnh. Qua nhiều Lần “phục kích”, hôm nay anh mới “chộp” được một cảnh thật ưng ý khi phát hiện ra một vẻ đẹp “trời cho” trên mặt biển mờ sương buổi sáng: trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp...”. Trước vẻ đẹp đó, anh tưởng như chính mình “vừa khám phá thấy cái chân lí của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Dường như anh đã bắt gặp cái tận Thiện, tận Mĩ trong hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa giữa trời biển mờ sương ấy...

Nhưng anh đã lầm bởi chính “cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại” đã đánh lừa anh. Đó chỉ là cái đẹp của chiếc thuyền ở ngoài xa giữa trời biển mờ sương huyền ảo. Nhưng khi chiếc thuyền ấy đến gần giữa cuộc đời rần trụi gai góc thì cái đẹp ấy lập tức biến mất, và cái xấu, cái ác hiện ra ngay, khốc liệt, phũ phàng! Anh đã chứng kiến từ chiếc thuyền ngư phù đẹp như trong mơ ấy bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu; một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn, độc ác, coi việc đánh vợ như là một phương cách để giải tỏa những uất ức, khổ đau: “..lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lại nguyền rủa bằng cái giọng rên ri đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ!”. Ngay lập tức, đứa con trai bé nhỏ lao tới cứu mẹ và trận ẩu đả dữ dội diễn ra giữa hai bố con trên bãi cát... Lão đàn ông lẳng lặng bỏ về thuyền, người mẹ vừa khóc vừa lạy đứa con rồi ôm chầm lấy nó, để sau đó, thật bất ngờ, lại buông đứa trẻ ra và đi thật nhanh, đuổi theo lão đàn ông trở về thuyền. Và chiếc thuyền bỗng biến mất như trong một truyện cổ đầy quái đản đem theo cái hình ảnh đẹp đẽ của nó bồng bềnh trong sương mù buổi sáng, chỉ còn để lại cái dư vị xót xa cay đắng của tấn bi kịch gia đình nhà thuyền chài khi chồng đánh vợ không thương tiếc, cha con đánh nhau như kẻ thù. Mà đâu phải chỉ một lần “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, lão lôi vợ lên bờ để đánh (theo lời van xin của mụ để khuất mắt lũ con cái dưới thuyền) cho bõ tức, cho bõ ghét, cho thỏa cái máu vũ phu trong người lão, cho sự bạo hành của cái ác được thỏa thê. Vậy mà khi vị chánh án huyện quả quyết: “Chị không sống nối với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu! Chị nghĩ thế nào?”, thì thật lạ, người đàn bà bất hạnh đã chắp tay vái lia lịa: “Con lạy quý tòa...” rồi trả lời rành rọt: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...” Thật không thể nào hiểu nổi vì sao mụ lại trả lời như thê? Chính câu nói này đã khiến người nghệ sĩ nhiếp ảnh (bị lão đàn ông đánh cho bị thương khi anh xông vào can thiệp vụ hắn đánh vợ ba hôm sau) phải vén lá màn bước ra bởi anh cảm thấy “gian phòng ngủ lồng lộng gió biển tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá”. Anh phải bước ra để trực tiếp đối diện với người đàn bà kì lạ này, mong hiểu được cái điều uẩn khúc còn chứa chất sâu kín trong đáy lòng mụ... Và tại cái tòa án huyện nhỏ bé này, qua những điều tâm sự, giãi bày của người đàn bà, anh đã hiểu ra những điều thật lớn lao, sâu sắc của cuộc sống, con người - những điều mà nếu chỉ sống hời hợt., nhìn thoáng qua thì không thế nào hiểu nổi. Vì sao người đàn bà khốn khổ ấy vẫn nhất quyết gắn bó với lão chồng vũ phu? Nguồn gốc của mọi sự chịu đựng, hi sinh đó là tình thương vô bờ đối với những đứa con: “...đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được!” Thế là rõ. Nếu hiểu sự việc một cách đơn giản (như chính ông chánh án đã hiểu) thì chỉ cần yêu cầu người đàn bà bỏ chồng là xong. Nhưng nếu nhìn vấn đề một cách thâu suốt sẽ thấy suy nghĩ và xử sự của bà là không thể khác được. Vả lại, trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no ”, “trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”. Những niềm hạnh phúc hiếm có ấy thật đáng quý biết bao trong cuộc đời tủi cực, bất hạnh của bà, và tác giả cũng thật tinh tế khi miêu tả “lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí cùa mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười”. Cuộc sống đa diện, nhiều chiều, con người có những nỗi niềm sâu kín bên trong, làm sao có thể hiểu một cách đơn giản, dễ dãi được? Và đâu phải chỉ những con người học thức, xuất chúng, mà ngay cả người lao động bình thường như người đàn bà hàng chài này cũng như vậy.

Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã vượt qua được cái nhìn đơn giản, dễ dãi để đem đến cho ta một truyện ngắn có chiều sâu nhận thức và có giá trị phát hiện bằng những nghịch lí của đời thường. Chiếc thuyền chỉ đẹp khi nó ở ngoài xa trong sương mù bồng bềnh huyền ảo, nhưng khi nó đến gần thì bên trong nó lại bộc lộ những cái thật xấu xa của cuộc sống con người; và trong cuộc sống bất hạnh của người đàn bà khốn khổ kia vẫn ánh lên những nét đẹp của người phụ nữ lao động - cho dù đó là những nét đẹp của sự âm thầm nhẫn nhục cam chịu không đáng có và không nên có của người phụ nữ trong thời đại ngày nay. Đó chính là cuộc sống thật đang diễn ra đây đó trên đất nước ta - một cuộc sống trần trụi, gai góc, nhức nhối - nhưng rất dễ bị che lấp bởi một vẻ đẹp thoáng qua bên ngoài. Và khi nhà văn đã vạch ra cái sự thật của cuộc sống đó thì cũng tức là họ đã đặt ra những câu hỏi bức xúc để góp phần thay đổi cuộc sống, hoàn thiện nhân cách con người.

ADQuảng cáo
(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Tổng hợp các bài nghị luận văn học về tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO