Tổng hợp 7 bài phân tích tác phẩm Muốn làm thằng cuội - Tản Đà - Văn mẫu lớp 8
Bài văn mẫu lớp 8: Phân tích Muốn làm thằng cuội - Tản Đà bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn ngữ văn 8.
- I. Tìm hiểu chung về tác giả và tác phẩm Muốn làm thằng cuội - Tản Đà
- 1. Tác giả Tản Đà
- 2. Hoàn cảnh sáng tác
- 3. Bố cục
- 4. Giá trị nội dung
- 5. Giá trị nghệ thuật
- II. Dàn ý chung cho tất cả đề bài phân tích tác phẩm Muốn làm thằng Cuội
- 1. Phần mở bài
- 2. Phần thân bài
- a. Hai câu đầu tiên
- b. Bốn câu giữa
- c. Hai câu kết
- 3. Phần kết bài
- III. Tổng hợp các đoạn văn nghị luận ngắn về tác phẩm Muốn làm thằng cuội
- 1. Viết một đoạn văn nêu cảm nhận về bài thơ Muốn làm thằng cuội.
- 2. Viết đoạn văn (8 – 10 câu) nêu cảm nhận của em về hai câu thơ mà em thích nhất trong bài thơ Muốn làm thằng Cuội.
- 3. Viết đoạn văn nêu cảm nhận của em về hai câu thơ mà em thích nhất trong bài thơ Muốn làm thằng Cuội của Tản Đà, trong đó có sử dụng hai từ tượng hình.
- III. Tổng hợp 7 đề thi phân tích bài thơ Muốn làm thằng Cuội của Tản Đà
- Đề 1: Hãy phân tích bài thơ Muốn làm thằng Cuội của Tản Đà.
- Đề 2: Cảm nhận của em về tâm trạng của Tản Đà qua bài thơ Muốn làm thằng Cuội.
- Đề 3: Chép lại chính xác một bài thơ 7 chữ đã học mà em thích nhất. Viết đoạn văn nêu ngắn gọn một lí do em thích bài thơ đã chép, trong đó có sử dụng dấu ngoặc đơn và dấu hai chấm.
- Đề 4: Cảm nhận của em về tâm trạng của Tản Đà qua bài thơ: Muốn làm thằng Cuội.
- Đề 5: Em hãy nêu cảm nghĩ của mình về tâm sự và cái ngông của Tản Đà qua bài Muốn làm thằng Cuội.
- Đề 6: Phân tích bài thơ Muốn làm thằng Cuội để thấy rõ cái ngông của nhà thơ Tản Đà.
- Đề 7: Cảm nhận về bài thơ “Muốn làm thằng Cuội” của Tản Đà thi sĩ.
I. Tìm hiểu chung về tác giả và tác phẩm Muốn làm thằng cuội - Tản Đà
1. Tác giả Tản Đà
- Tản Đà (1889- 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu.
- Quê quán: làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây( nay là huyện Ba Vì, Hà Nội).
- Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác:
+ Tản Đà xuất thân là một nhà nho.
+ Vì mấy lần đi thi không đỗ nên ông đã chuyển sang sáng tác văn chương quốc ngữ rồi sớm nổi tiếng, nhất là những năm 20 của thế kỉ XX.
+ Ngoài viết thơ Tản Đà còn nổi tiếng với nhiều bài văn xuôi, tản văn, tùy bút, tự truyện…
+ Những tác phẩm tiêu biểu: Giấc mộng con, Thề non nước, Khối tình con…
- Phong cách sáng tác: Thơ Tản Đà tràn đầy cảm xúc lãng mạn, lại vô cùng đậm đà bản sắc dân tộc, thơ ông có những tìm tòi và sáng tạo rất mới mẻ. Thơ Tản Đà như một gạch nối giữa thơ cổ điển và thơ hiện đại Việt Nam
2. Hoàn cảnh sáng tác
- Bài thơ Muốn làm thăng Cuội in trong tập “Khối tình con I”(xuất bản năm 1917).
3. Bố cục
- Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật nhưng có những mới mẻ và sáng tạo riêng.
- Bố cục: 4 phần: đề, thực, luận, kết.
4. Giá trị nội dung
- Bài thơ chính là tâm sự của một con người bất hòa sâu sắc với thực tại tầm thường, muốn thoát li bằng mộng tưởng lên cung trăng bầu bạn với chị Hằng để thoát khỏi những thứ tầm thường ấy.
5. Giá trị nghệ thuật
- Bài thơ có nhiều sáng tạo, mới mẻ trong hình thức với thể thất ngôn bát cú Đường luật cổ điển.
- Giọng thơ hóm hỉnh, phóng túng pha một chút ngông.
- Ngôn ngữ thơ bình dị, trong sáng mà tự nhiên có sử dụng nhiều khẩu ngữ.
II. Dàn ý chung cho tất cả đề bài phân tích tác phẩm Muốn làm thằng Cuội
1. Phần mở bài
- Khái quát về tác giả Tản Đà: Một tác giả như một dấu gạch nối giao thời giữa thơ cũ và thơ Mới.
- Giới thiệu chung về bài thơ Muốn làm thằng Cuội: bài thơ là tâm sự của tác giả về thực tại.
2. Phần thân bài
a. Hai câu đầu tiên
- “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!”: lời cảm thán gợi không gian: Đêm thu, trăng sáng.
- Nhà thơ bộc lộ trực tiếp suy tư của bản thân về trần thế: “buồn lắm”, “Trần thế em nay chán nửa rồi”: Lí do là vì cõi trần lắm bon chen, bất công, đất nước mất độc lập, tự do, thân phận nô lệ.
- “Chán nửa”: trong sâu thẳm vẫn tha thiết yêu cuộc sống.
- Xưng hô: chị- em (nhún nhường mà bất trị- ngông).
⇒ Biểu cảm trực tiếp, giọng thơ như lời than thở nhấn mạnh tâm trạng buồn sầu da diết, không nguôi, niềm bất hoà sâu sắc với xã hội.
b. Bốn câu giữa
- Bày tỏ mong muốn thoát li lên cung Quế (cung trăng) - nơi đẹp đẽ, thanh cao trong sáng - ở cạnh chị Hằng - người đẹp .
⇒ Ước muốn rất ngông.
- Niềm mong muốn được vui trong cảnh bầu bạn, thả hồn cùng mây gió.
⇒ Đó chỉ là niềm vui gượng, vui nhạt vì nó chỉ có trong mộng tưởng.
c. Hai câu kết
- Cảnh: thi sĩ mãi mãi ở trên cung trăng cùng chị Hằng, đêm rằm trung thu tháng 8 thi sĩ kề vai chị Hằng trông xuống thế gian cười.
⇒ Hình ảnh bất ngờ, thi vị thể hiện cao độ hồn thơ ngông của Tản Đà.
- Thi sĩ thoả mãn vì đã đạt được khát vọng, thoát li mãnh liệt, xa lánh hẳn được cõi trần bụi bặm.
- “Tựa nhau trông xuống thế gian cười” : sự mỉa mai khinh bỉ cõi trần gian.
⇒ Khao khát sự đổi thay XH theo hướng tốt đẹp, thoả mãn nhu cầu sống cá nhân.
3. Phần kết bài
- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm: Với Lời lẽ giản dị, trong sáng, giọng điệu nhẹ nhàng hóm hỉnh, sức tưởng tượng phong phú, bài thơ là lời tâm sự của một con người bất hòa sâu sắc với thực tại tầm thường mà xấu xa.
- Liên hệ trình bày suy nghĩ bản thân.
III. Tổng hợp các đoạn văn nghị luận ngắn về tác phẩm Muốn làm thằng cuội
1. Viết một đoạn văn nêu cảm nhận về bài thơ Muốn làm thằng cuội.
Qua bài thơ Muốn làm thằng Cuội, Tản Đà đã bộc lộ những tâm sự về nỗi buồn nhân thế, về thực tại của xã hội đầy rẫy những áp bức, bất công và khát vọng muốn thoát li thực tại để đến với cõi mộng. Bài thơ được viết theo thể thể thơ thất ngôn bát cú đường luật với ngôn ngữ giản dị, gần gũi thể hiện những tâm sự sâu lắng trong tâm hồn thi nhân. Hai câu đầu mở ra như một lời tâm sự chân thành của tác giả về nỗi sầu bi, chán ghét cuộc sống thực tại, nơi người dân phải chịu bao lầm than ai oán mà không có cách nào thoát ra. Trước nỗi buồn đó, tác giả đã gửi gắm ước mơ được đến với chị Hằng, với cung trăng để bầu bạn với mây cao gió mát. Đó cũng là ước muốn về một cuộc sống thanh cao, tốt đẹp hơn, nơi ấy con người được tự do và chan hòa với thiên nhiên. Chất mộng ảo, mong muốn thoát tục, lãng mạn thấm đượm trong bài thơ, khiến thi nhân như tạm quên đi những đau khổ và buồn chán trong cuộc sống thực tại. Tư thế ngồi “tựa lưng”, thảnh thơi ngắm nhìn từ trên tầng cao của vũ trụ, cùng nhìn xuống mà nở nụ cười thách thức nhân gian ô trọc, bé nhỏ, hèn mọn. Hình ảnh này đã thể hiện đậm nét sự lãng mạn và cái ngông của Tản Đà, bộc lộ một nguồn xúc cảm mới, đầy cá tính đa tình, phóng túng. Cái cười ở lời kết của bài thơ như thể hiện niềm vui, thỏa mãn ước mong về khát vọng thoát li, xa lánh bụi trần nhưng đó cũng là tiếng cười mỉa mai, khinh bỉ cõi trần.
2. Viết đoạn văn (8 – 10 câu) nêu cảm nhận của em về hai câu thơ mà em thích nhất trong bài thơ Muốn làm thằng Cuội.
“Rằm tháng tám” là thời điểm mặt trăng viên mãn tròn đầy nhất. Đó cũng là thời điểm cả nhân gian ngước nhìn chiêm ngưỡng mặt trăng. Khi ấy, nhân loại sẽ dáo dác khi thấy một Tản Đà ngông ngạo “tựa lưng” cùng chị Hằng xinh đẹp, thần phép. Với tư thế ngồi “tựa lưng” thân thiết, tình tứ, từ trên cao lơ lửng của vũ trụ, họ cùng nhìn xuống mà nở nụ cười thách thức nhân gian ô trọc, bé nhỏ, hèn mọn. Hình ảnh này đã thể hiện đậm nét sự lãng mạn và cái ngông của Tản Đà, bộc lộ một nguồn xúc cảm mới, đầy cá tính đa tình, phóng túng. Không chỉ vậy, cái cười ở đây của nhà thơ vừa thể hiện niềm vui vì đã thoả mãn đựợc cái khát vọng thoát li mãnh liệt, xa lánh hẳn được sự bụi bặm của cõi trần, vừa là tiếng cười mỉa mai, khinh bỉ cõi trần – nó thật nhỏ bé trước con mắt và tầm vóc lớn lao của nhà thơ.
3. Viết đoạn văn nêu cảm nhận của em về hai câu thơ mà em thích nhất trong bài thơ Muốn làm thằng Cuội của Tản Đà, trong đó có sử dụng hai từ tượng hình.
“Rằm tháng tám” là thời điểm mặt trăng viên mãn tròn đầy nhất. Đó cũng là thời điểm cả nhân gian ngước nhìn chiêm ngưỡng mặt trăng. Khi ấy, nhân loại sẽ dáo dác khi thấy một Tản Đà ngông ngạo “tựa lưng” cùng chị Hằng xinh đẹp, thần phép. Với tư thế ngồi “tựa lưng" thân thiết, tình tứ, từ trên cao lơ lửng của vũ trụ, họ cùng nhìn xuống mà nở nụ cười thách thức nhân gian ô trọc, bé nhỏ, hèn mọn. Hình ảnh này đã thể hiện đậm nét sự lãng mạn và cái ngông của Tản Đà, bộc lộ một nguồn xúc cảm mới, đầy cá tính đa tình, phóng túng. Không chỉ vậy, cái cười ở đây của nhà thơ vừa thể hiện niềm vui vì đã thoả mãn được cái khát vọng thoát li mãnh liệt, xa lánh hẳn được sự bụi bặm của cõi trần, vừa là tiếng cười mỉa mai, khinh bỉ cõi trần - nó thật nhỏ bé trước con mắt và tầm vóc lớn lao của nhà thơ.
III. Tổng hợp 7 đề thi phân tích bài thơ Muốn làm thằng Cuội của Tản Đà
Đề 1: Hãy phân tích bài thơ Muốn làm thằng Cuội của Tản Đà.
Tản Đà - Nguyễn Khắc Hiếu xuất hiện trên văn đàn Việt Nam những năm đầu thế kỷ với một cá tính độc đáo: một nhà thơ của sầu và mộng, ngông và đa tình. Bài thơ Muốn làm thằng Cuội đã thể hiện rất rõ cá tính ấy của ông.
Bài thơ Muốn làm thằng Cuội in trong tập Khối tình con (1916). Mặc dù tác phẩm được làm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật song người đọc sẽ thấy ở đây, dưới cái hình thức còn là của thơ cổ ấy những dấu hiệu mới mẻ của cảm xúc. Tâm sự của nhà thơ ở một thời đại mới đã khiến cho cái hình thức thơ cũ có chiều hướng giảm nhẹ đi tính trang trọng, mực thước. Sự giản dị, trong sáng gần với khẩu ngữ tự nhiên làm nên nét duyên của bài thơ này.
Ngay từ nhan đề của bài thơ đã cho thấy một giọng điệu suồng sã, như là đã giải tỏa được một nhu cầu nói thật, thẳng thắn của nhà thơ và cũng lại cho thấy cái ngông nghênh, bất đắc chí: muốn ở đây như một nhu cầu bức xúc, chẳng cần giấu giếm, vòng vo. Nhưng muốn cái gì? Muốn làm cuội thì đích thực là muốn thoát lên trên rồi. ước vọng lên trên thơ mộng thế mà nói tựa như là muốn ăn, muốn uống, muốn ngủ... thật là thành thực!
Và, nếu muốn thoát tục, lên trên thì thiếu gì những hình mẫu tiên để ước sao cứ phải là thằng Cuội? Thằng chứ không phải chú - cũng là một kiểu nói ngông.
Thế thì chính là thi sĩ đa tình này muốn lên cung trăng rồi!
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi,
Trần thế em nay chán nửa rồi!
Chị Hằng thì phải ở cung trăng chứ còn gì nữa! Thì ra thi sĩ của chúng ta muốn làm thàng Cuội để tâm sự cùng chị Hằng Nga xinh đẹp. Hai câu mở đầu bài thơ như một tiếng kêu than. Chẳng cần phải mượn cái khác để diễn tả nỗi buồn trong lòng mình, thi sĩ bộc bạch ngay nỗi lòng mình. Hai chữ buồn lắm thật chân thành. Thi sĩ chỉ lòng mình ra trong tiếng gọi tha thiết. Ta thường gặp trong thơ Tản Đà một vẻ buồn chán, cái buồn lan trùm tất cả. Vì buồn lắm như thế nên thi sĩ mới "muốn làm thằng Cuội . Nhưng không phải là cái buồn vô cớ, càng không phải kiếm cớ buồn đẽ được lên tiên. Cái buồn ở đây là cái buồn đời, buồn chán cuộc đời tối tăm, đen bạc, đảo điên. Không ít lần Tản Đà kêu chán đời: "Đời đáng trách biết thôi là đủ - Sự chán đời xin nhủ lại tri âm", "Gió gió mưa mưa đã chán phèo - Sự đời nghĩ đến lại buồn teo"... Sống trong bối cảnh xã hội thực dân nửa phong kiến những năm đầu thế kỉ XX, chẳng phải chỉ riêng Tản Đà buồn chán. Không khí tù hãm, u uất của một dân tộc bị mất nước bao trùm hết thảy, đè nặng tâm trí con người, nhất lại là những con người nhạy cảm như thi nhân. Tâm trạng buồn chán là tâm trạng của thời đại. Có trăm ngàn vẻ buồn khác nhau song đều thấy điểm chung là sự bế tắc trước thực tại cuộc đời, từ đó mà sinh ra chán nản, bất mãn đối với thời cuộc.
Cái buồn của Tản Đà cũng bắt nguồn từ đấy. Và thế là thi sĩ tìm lối thoát bằng cách thoát li khỏi cuộc đời, sống trong một thế giới khác, thế giới mộng mơ, thần tiên. Thi nhân gọi trăng là chị, xưng với trăng là em thì vừa là muốn thân tình, gần gũi để giãi bày, vừa là chơi ngông. Bốn câu thơ tiếp càng thể hiện cái ngông của Tản Đà:
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi
Ngông thực chất là một thái độ ứng xử đối với cuộc đời, một biểu hiện khác của sự chán ngán, bất mãn với thời cuộc. Phải là người yêu đời lắm, tha thiết với cuộc sống lắm thì mới tỏ ra buồn chán đến bất hòa trước cuộc đời đang rối ren, đen tối như thế. Câu 3 của bài thơ là lời ướm hỏi, rồi đến câu 4 là lời đề nghị. Nấu Cung quế chưa có ai thì chị cũng buồn, cũng cô đơn lắm nên hãy để em lên chơi cùng, em đỡ buồn mà chị cũng bớt cô đơn. Tính từ đây mà cũng ngang tàng đấy! Xin chị đừng từ chối nhé, bởi vì em có lí lẽ đây này:
Có bầu có bạn, cùng tri kỷ
Cùng gió cùng mây, thế mới vui.
Cái lí của thi nhân thật là thuyết phục. Song trong sự thuyết phục để thoát li, xa lánh trần thế ấy chúng ta thấy một thực trạng buồn vắng, cô đơn của tâm hồn thi sĩ. Vốn đa tình đa cảm nên thi nhân luôn luôn có khát vọng được người tri kỉ, mà cõi trần thì "Chung quanh những đá cùng cây; Biết người tri kỉ nơi đâu mà tìm". Cái vui của thi nhân là cái vui được tâm giao, tâm đồng. Gió, mây thơ mộng được không nếu chẳng có bầu có bạn". Khát vọng lên trên, lánh đời ở đây thực ra là một cách bộc lộ khao khát đồng cảm, tri âm trong cuộc đời của Tản Đà. Và cái cách ở đây là ngông. Chưa hết, thi nhân còn vẽ ra viễn cảnh:
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
Tựa nhau trông xuống thế gian cười
Lãng mạn hết mức, tưởng tượng ra cảnh "tựa nhau" cùng chị Hằng thì quả là cái ngông đã đến đỉnh điểm. Tác giả hạ chữ cười ở cuối bài thật đắt. Cười ở đây chứng tỏ cái hả hê thỏa mãn khi trong ước vọng được thoát tục, rồi bỏ được trần ai mà lên tiên. Cười còn là thái độ mỉa mai, khinh khi cái cuộc đời đang đầy những sầu khổ, cô đơn dưới kia. Cười thách thức. Cười ngông.
Bài thơ tuân thủ khuôn mẫu của một bài thất ngôn bát cú Đường luật cổ điển. Nhưng nguồn cảm xúc tự nhiên, không chừng bay bổng đã tự tìm đến những lời thơ tựa như lời nói hàng ngày: "buồn lắm chị Hằng ơi", "em nay chán nửa rồi", "đã ai ngồi đây chưa", "xin chị nhắc lên chơi", "thế mới vui", "tựa nhau trông xuống thế gian cười"; xưng hô khẩu ngữ (chị - em) tự nhiên, không đẽo gọt cầu kì và ngữ điệu biểu hiện đa dạng (ơi, rồi, đó chửa, xin, thế mới). Lên tiên, thoát tục là thi đề quen thuộc trong thơ cổ, ở đây cái không mới ấy đã được làm mới bằng giọng điệu, bằng lời thơ.
Cái ngông của Tản Đà trong bài thơ này là một hình thức ứng xử vốn nằm trong cốt cách của nhà nho tài tử trong thơ truyền thống. Song, như chúng ta đã thấy, cái ngông ấy lại là thái độ của Tản Đà đối với xã hội ta những năm đầu thế kỉ XX, bộc lộ một nguồn xúc cảm mới, đầy cá tính đa tình, phóng túng. Cái mơ mộng thành ra cái ngông thì quả là đậm chất riêng của Tản Đà.
Đề 2: Cảm nhận của em về tâm trạng của Tản Đà qua bài thơ Muốn làm thằng Cuội.
Người ta nhắc tới Tản Đà với nhiều ấn tượng sâu đậm: là thi sĩ khởi đầu cho nền thơ lãng mạn, là người chắp viên gạch nối thơ cổ đại với thơ hiện đại. Trong chất lãng mạn đó ẩn chứa tư tưởng, tình cảm và tấm lòng yêu nước sâu sắc của ông. Bài thơ: "Muốn làm thằng Cuội" là một ví dụ tiêu biểu. Như ta đã biết - xã hội ông đang sống quá coi trọng đồng tiền và địa vị. Tài năng - sức lao động - tình cảm sâu đậm không đem lại hạnh phúc cho con người. Bao trùm bên trong là nỗi buồn về thực tại. Tản Đà đã bật lên một lời gọi, lời nhắn gửi chị Hằng - người bạn muôn đời của những kẻ cô đơn:
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi.
Mở đầu bài thơ là một lời than thở, một nỗi sầu da diết. Giọng điệu thân thiết pha chút mỉa mai bởi cuộc đời ngột ngạt, bon chen vì công đanh dang dở: "Tài cao, phận thấp, chí khí uất”. Là thi sĩ nên nỗi buồn đã kết thành nỗi sầu. Đây là thái độ không chấp nhận thực tại, bất hoà thực tại, bất hoà với trần thế.
Ông khát khao một cuộc sống đẹp hơn, vượt lên trên cái thấp hèn:
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Đó là thế giới mà ông mơ ước, là cõi đời trong sáng, tinh khiết, không vướng bẩn, không lo lắng, bon chen.
Hai câu thơ là câu hỏi, là lời đề nghị, là lời cầu xin được lên cung trăng, nơi thanh cao, không phải chịu cảnh đời trần thế nhố nhăng tù hãm. Nỗi sầu của Tàn Đà là nỗi sầu của người nô lệ. Bất lực trước thực tại, Tản Đà muốn lẩn trốn vào thiên nhiên bằng mộng tưởng:
Có bầu có bạn, can chi tủi
Cùng gió cùng mây thế mới vui
Thi sĩ lên cung quế có bạn, có bè quên đi nỗi ngán ngẩm, chán nản, và giải toả được nỗi buồn - ông đã "vui” đã "cười" - ông cười tất cả những giành giật, nhố nhăng nơi trần thế, "cười” sung sướng khi thấy cõi trần không ai được như ông, được hưởng cuộc sống thần tiên thoát tục.
Hai câu thơ:
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
Tựa nhau trông thấy thế gian cười
thật độc đáo và lãng mạn. Rằm tháng tám là khi trăng trong nhất, đẹp nhất và cũng là sáng nhất. Vào lúc tuyệt vời nhất của trăng ấy, nhân vật trữ tình ước muốn cùng chị Hằng; ngồi bên chị Hằng tựa vào nhau mà nhìn xuống trần thế để cười.
Câu thơ là đỉnh cao của cái ngông rất phù hợp với tính chất Tản Đà. Ngồi bên cạnh người đẹp, đó đã là một niềm hạnh phúc. Hơn thế nữa thi sĩ còn tự đặt mình lên một địa vị cao để mà cười cợt. Cái ngông này thật hiếm có, đáng yêu, đáng trân trọng ở trong giai đoạn này. Bởi các thi sĩ lãng mạn yêu nước nhưng không đủ dũng khí để chiến đấu - thường tìm đến thiên nhiên hoặc trốn vào mộng tưởng để trốn đời.
Cả bài thơ là giấc mộng kỳ thú, là niềm khao khát về cuộc đời đẹp, về một cõi mơ trong sáng, không vướng bận sự đời.
Tóm lại, tâm trạng bao trùm cả bài thơ là tâm trạng buồn chán thất vọng với cuộc đời. Đó là thái độ không dung hoà với thực tại, là sự phản kháng gián tiếp với cuộc đời. Thi sĩ khát khao một xã hội tự do, tươi đẹp và trong sạch. Hình ảnh chị Hằng với cung quế, cây đa là những hình ảnh của cõi tiên đầy lãng mạn. Cõi tiên ấy là cả một thế giới mà Tản Đà mong muốn có. Thực ra, sự chán chường và niềm khát khao ấy xuất phát từ lòng yêu nước thầm kín của Tản Đà - nỗi buồn xuất phát từ nỗi nhục của người nô lệ và ước muốn xuất phát từ khát vọng được tự do.
Đề 3: Chép lại chính xác một bài thơ 7 chữ đã học mà em thích nhất. Viết đoạn văn nêu ngắn gọn một lí do em thích bài thơ đã chép, trong đó có sử dụng dấu ngoặc đơn và dấu hai chấm.
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi
Có bầu có bạn can chi tủi
Cùng gió cùng mây thế mới vui
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
Tựa nhau trông xuống thế gian cười.
Bài thơ “Muốn làm thăng Cuội” của Tản Đà hấp dẫn người đọc ở giọng thơ “ngông” rất thú vị. Tản Đà là môt “người trần mắt thịt” nhưng khi buồn lại than với cả chị Hằng (đây là nhân vât chỉ có trong truvền thuyết, nàng nổi tiếng bởi sắc đẹp và sự màu nhiệm thần kì). Điều đó chứng tỏ Tản Đà tự coi mình có vị thế ngang cùng những bậc tiên nhân. Chẳng những vậy ông còn có một ước muốn rất ngông cuồng: sánh đôi cùng chị Hằng xinh đẹp. Ai chẳng biết Hằng Nga là niềm ngưỡng vọng của bao thế hệ thi nhân, là niềm ước mong của bao người trần thế. Nhưng thể hiện niềm mong mỏi ấy giống như Tản Đà thì có lẽ chưa có ai. Thi nhân đã nghĩ đến cảnh “tựa lưng” cùng chị Hằng nhìn xuống nhân gian trong khi cả nhân gian ngước lên nhìn hai người bên nhau cười ngạo nghễ! Câu thơ cuối cùng là sự tột đỉnh cái ngông trong bài thơ vậy!
Đề 4: Cảm nhận của em về tâm trạng của Tản Đà qua bài thơ: Muốn làm thằng Cuội.
Người ta nhắc tới Tản Đà với nhiều ấn tượng sâu đậm: là thi sĩ khởi đầu cho nền thơ lãng mạn, là người chắp viên gạch nối thơ cổ đại với thơ hiện đại. Trong chất lãng mạn đó ẩn chứa tư tưởng, tình cảm và tấm lòng yêu nước sâu sắc của ông. Bài thơ Muốn làm thằng Cuội là một ví dụ tiêu biểu. Như ta đã biết, xã hội ông đang sống quá coi trọng đồng tiền và địa vị. Tài năng, sức lao động, tình cảm sâu đậm không đem lại hạnh phúc cho con người. Bao trùm bên trong là nỗi buồn về thực tại. Tản Đà đã bật lên một lời gọi, lời nhắn gửi chị Hằng - người bạn muôn đời của những kẻ cô đơn:
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi.
Mở đầu bài thơ là một lời than thở, một nỗi sầu da diết. Giọng điệu thân thiết pha chút mỉa mai bởi cuộc đời ngột ngạt, bon chen vì công danh dang dở: Tài cao, phận thấp, chí khí uất. Là thi sĩ nên nỗi buồn đã kết thành nỗi sầu. Đây là thái độ không chấp nhận thực tại, bất hoà thực tại, bất hoà với trần thế.
Ông khát khao một cuộc sống đẹp hơn, vượt lên trên cái thấp hèn:
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.
Đó là thế giới mà ông mơ ước, là cõi đời trong sáng, tinh khiết, không vướng bận, không lo lắng, bon chen. Hai câu thơ là câu hỏi, là lời đề nghị, là lời cầu xin được lên cung trăng, nơi thanh cao, không phải chịu cảnh đời trần thế nhố nhăng tù hãm. Nỗi sầu của Tản Đà là nỗi sầu cùa người nô lệ. Bất lực trước thực tại, Tản Đà muốn lẩn trốn vào thiên nhiên bằng mộng tưởng:
Có bầu có bạn, can chi tủi
Cùng gió cùng mây thế mới vui
Thi sĩ lên cung quế có bạn, có bè quên đi nỗi ngán ngẩm, chán nản và giải toả được nỗi buồn - ông đã vui, đã cười - ông cười tất cả những giành giật, nhố nhăng nơi trần thế, cười sung sướng khi thấy cõi trần không ai được như ông, được hưởng cuộc sống thần tiên thoát tục.
Hai câu thơ cuối thật độc đáo và lãng mạn:
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
Tựa nhau trông xuống thế gian cười.
Rằm tháng tám là khi trăng trong nhất, đẹp nhất và cũng là sáng nhất. Vào lúc tuyệt vời nhất của trăng ấy, nhân vật trữ tình ước muốn cùng chị Hằng; ngồi bên chị Hằng tựa vào nhau mà nhìn xuống trần thế để cười.
Câu thơ là đỉnh cao của cái ngông rất phù hợp với tính chất Tản Đà. Ngồi bên cạnh người đẹp, đó đã là một niềm hạnh phúc. Hơn thế nữa thi sĩ còn tự đặt mình lên một địa vị cao để mà cười cợt. Cái ngông này thật hiếm có, đáng yêu, đáng trân trọng ở trong giai đoạn này. Các thi sĩ lãng mạn yêu nước nhưng không đủ dũng khí để chiến đấu - thường tìm đến thiên nhiên hoặc trốn vào mộng tưởng để trốn đời.
Cả bài thơ là giấc mộng kì thú, là niềm khao khát về cuộc đời đẹp, về một cõi mơ trong sáng, không vướng bận sự đời. Tóm lại, tâm trạng bao trùm cả bài thơ là tâm trạng buồn chán thất vọng với cuộc đời. Đó là thái độ không dung hoà với thực tại, là sự phản kháng gián tiếp với cuộc đời. Thi sĩ khát khao một xã hội tự do, tươi đẹp và trong sạch. Hình ảnh chị Hằng với cung quế, cây đa - là những hình ảnh của cõi tiên đầy lãng mạn. Cõi tiên ấy là cả một thế giới mà Tản Đà mong muốn có. Thực ra, sự chán chường và niềm khát khao ấy xuất phát từ lòng yêu nước thầm kín của Tản Đà - nỗi buồn xuất phát từ nỗi nhục của người nô lệ và ước muốn xuất phát từ khát vọng được tự do.
Đề 5: Em hãy nêu cảm nghĩ của mình về tâm sự và cái ngông của Tản Đà qua bài Muốn làm thằng Cuội.
Bài thơ có sức hấp dẫn do lời thơ tự nhiên, giản dị, có nhiều hình ảnh bắt nguồn từ trong các tác phẩm dân gian hoặc các điển tích thông dụng, do tình thơ buồn chán mà chân thành.
Hai câu đầu đã diễn tả tâm trạng của nhà thơ trước cảnh đời:
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi,
Đã “buồn”, đã “chán”, lại gặp cảnh “đêm thu”, tâm trạng ây dường như nhân lên gâp bội. Nhà thơ buồn chán vì chí hướng của mình không thực hiện được hay vì cuộc đời nghèo khổ, túng quẫn. Câu thơ cứ buồn trĩu xuống bằng những thanh bằng liên liếp. Nhà thơ không chỉ chán một cảnh đời đang sống mà chán cả trần thế. Có lẽ vì thế mới nảy sinh cái ý “’muốn làm thằng Cuội" muốn bỏ quách trần gian để lên ở trên cung quế với chị Hằng.
Tản Đà chán đời nhưng vẫn không quên đời. Lên với chị Hằng, ông vẫn tìm cách hướng về đời.
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám,
Tựu nhau trông xuống thế gian cười.
Đây là cái cười gì? Cười tình, cười sảng khoái, hả hê hay cười mỉa mai, khinh thị? Có lẽ phải hiểu đây là cái cách biểu lộ thái độ khinh bạc với đời. Vì sao ông lại chọn ngày rằm tháng tám chứ không phải là ngày khác để hiểu thị sự khinh bạc đó? Chắc vì ông muốn nhân lên nhiều lần thái độ bất cần của mình với đời.
Tóm lại, tâm sự của Tản Đà là tâm sự kẻ buồn chán cuộc sống muốn tìm một nơi ẩn náu. Ông muốn tìm đến với thiên nhiên (ở đây là cung quế và chị Hằng), ẩn mình trong thiên nhiên để giễu cợt lại đời bằng sự kiêu bạc của mình Qua thơ Tản Đà ta còn thấy cái “ngông” thể hiện khá rõ:
Trước tiên, ngay đề bài đã nói lên một cái gì không bình thường. Ai cũng biết thằng Cuội trong văn học dân gian, trong ấn tượng của người Việt Nam gắn liền với cái thói nói dối (cho nên mới có câu: “Nói dối như Cuội”. Thế mà ở đây, Tản Đà lại Muốn làm thằng Cuội, cái ý muốn ấy thật khác thường, thật coi thường tất cả. Nó là một điều ngông.
Nhà thơ gọi Hằng Nga là chị xưng em ngọt xớt. Song trong bốn câu thơ sau này, ông lại có phần lả lơi với chị Hằng:
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.
Có bầu có bạn can chi tủi,
Cùng gió cùng mây thế mới vui.
Câu “Cành đa xin chị nhắc lên chơi” vừa nói cách lên cung Quảng lạ đời của ông, vừa có ý vị cười cợt của Xuân Hương. Chất đùa cợt lúc ẩn lúc hiện trong những câu thơ này khiến bài thơ lấy lại thế cân bằng, không lao sầu vào nỗi buồn chán giãi bày trong hai câu thơ mở đầu của bài. Trong cách xưng hô, trò chuyện của ông với chị Hằng, có ẩn chứa chút hơi ngông. Ở hai câu cuối, tư thế nhà thơ và chị Hằng cùng “Tựa nhau trông xuống thế gian cười” cũng là tư thế khác thường so với quan niệm về quan niệm nam nữ thời ông đang sống. Nó cũng chỉ là cử chỉ ngông nghênh của ông dưới con mắt các nhà nho đương thời.
Vì sao Tản Đà lại có cái ngông, lại thể hiện cái ngông đó trong thơ mình? Có lẽ đây là một cách phản ứng lại với cuộc sống. Nó gắn liền với cá tính phóng túng của nhà thơ. Nó tạo cho thơ ông có một giọng điệu khác thường.
Bài thơ hấp dẫn người đọc trước tiên do lời thơ giải dị, tự nhiên. Có câu như một tiếng than, có câu lại như lời hỏi. Câu nào cũng không thấy dấu vết đẽo gọt của bàn tay thơ nhưng câu nào cũng điêu luyện.
Đề 6: Phân tích bài thơ Muốn làm thằng Cuội để thấy rõ cái ngông của nhà thơ Tản Đà.
Bài thơ viết theo thể Đuờng luật thất ngôn bát cú. Niêm luật đầy đủ, đối ý, đối thanh chặt chẽ và cân đối. Nhưng ngay từ câu đầu, bằng lời lẽ tự nhiên, nhà thơ bộc lộ tâm sự trong lời than thở “buồn lắm”! Nhưng phải đọc cả hai câu đầu mới thấy cái buồn của nhà thơ là vì lẽ gì? Than thở với ai? Và ở thời điểm nào?
Ta hãy đọc câu 1 và 2:
Đêm thu buồn lắm Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi.
Thì ra vào một đêm thu, có trăng sáng, nhà thơ bị nỗi buồn nơi trần thế xâu xé, nên ngẩng lên phàn nàn với chị Hằng!
Như thế đã “buồn” lại “chán” nữa, nhưng tìm hiểu một số" ý trong hai câu thơ này sẽ thấy chẳng riêng của Tản Đà. Trước hết là lí do của cái buồn. Phải chăng trong cuộc đời này chí hướng của ông không thể thực hiện? Cái “trần thế” mà nhà thơ đang sống nó ngột ngạt, nặng trĩu xuống bởi các thanh bằng “chị Hằng ơi, trần thế em nay”. Nhưng dù buồn chán, nhà thơ vẫn dùng cách xưng hô ngọt xớt “chị Hằng ơi”, thành ra giọng điệu thơ vừa ngọt ngào vừa thân thiết, xoá đi cái khoảng cách vời vợi giữa trái đất và vầng trăng. Nhưng sao không nói “chán lắm rồi” mù chỉ mới “chán nửa rồi”, một cách nói hình tượng có vẻ ỡm ờ, nhưng không sàm sỡ! vầng trăng từ xưa đến nay vốn là nguồn mạch vô tận của thơ ca. Nhưng hôm nay thì “vầng trăng” không còn để ngắm, để xúc cảm, mà để cho thi sĩ làm bạn xin giúp đỡ cho ông thoát khỏi cái “trần thế” đã chán một “nửa rồi”.
Tiếp đến câu 3 và 4 vẫn là nỗi niềm tâm sự, nhưng nói rõ nguyện vọng:
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.
Đây là lời ướm hỏi “có ai” trên ấy hay chưa, rồi mới xin bám vào cây đa để lên chơi!
Câu 4 và 5: Ta thấy thi sĩ đi từng bước, lúc đầu chỉ xin lên chơi với ý nghĩa:
Có bầu có bạn can chi tủi
Cùng gió cùng mây thể mới vui.
Có nghĩa là trong cảm tưởng, nhà thơ hình dung thấy “chị Hằng” cũng đang cần có nguồn vui, cần “có bầu có bạn”!
Câu 7 và 8: Tiến thêm một bước nữa, nhà thơ muốn lên cung trăng và ở lại đó suốt đời chứ không phải chỉ lên chơi, vì hai câu kết đã nói rõ:
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám,
Tựa nhau trông xuống thế gian cười.
Đây là tiếng cười, nhưng cười cái gì khi trông xuống “thế gian”? Cười cái bọn bon chen ở trần thế nơi ông đã sống những ngày đi về với những giấc mộng mà trong thực tế thì rất vất vả, gian truân. Hai câu thơ cuối không còn khoảng cách “chị” và “em” nữa, mà hầu như nhà thơ đã “bá vai” chị Hằng cười sảng khoái hả hê!
Nhiều bài thơ của Tản Đà có cái ngông! Trong bài thơ này cái ngông cũng thể hiện ở nhiều câu. Trước hết là cái ngông muôn làm thằng Cuội. Hình tượng thằng Cuội trong dân gian được xem như một con người xấu (nói dối như Cuội) thế mà nhà thơ lại không có cái điều đáng chê trách đó, vì muốn lên cung trăng! Cái ngông thứ hai là lúc đầu ông xưng hô “chị, em” cười với chị Hằng, nhưng sau đó lại lả lơi muốn kết thành “bầu, bạn”. Thật là khó hiểu hai chữ “bầu bạn”! Cái ngông thứ ba là lúc đầu ông chỉ muốn lên chơi, sau dần chuyển thành ý định ở lâu dài nơi cung quảng để mỗi năm đến rằm tháng tám “tựa nhau” trông xuống thế gian mà cười! “Tựa nhau” quả là một tư thế nam nữ có vẻ quá thần mật (nêu không muôn nói là suồng sã). Cái ngông cuối cùng là tiếng cười ngạo mạn, coi như dưới con mắt mình toàn chuyện nực cười.
Muốn làm thằng Cuội còn có ý nghĩa sâu xa khác là chán ghét cái xã hội hiện thời, mơ ước một cõi đời “Bồng Lai ngày tháng thanh nhàn”, nơi con người không còn vướng bận, lo lắng, bon chen nữa! Tuy vậy bài thơ không để lại một cảm giác nặng nề, bi quan mà gợi cho lòng ta một nỗi buồn man mác, trong sáng... Đó cũng là yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ.
Thơ văn Tản Đà là cái gạch nối giữa cổ điển và hiện đại, nổi bật trên thi đàn hợp pháp hồi đầu thế kỉ. Bài thơ Muốn làm thằng Cuội rút ra từ tập thơ Giấc mộng con in năm 1926. Tuy mới chỉ là thể hiện của một khát vọng lãng mạn đầu tiên, nhưng đây là một hồn thơ phóng khoáng, khơi nguồn cho những sáng tạo của phong trào Thơ mới như ông Hoài Thanh đã nhận định.
Cái hay của bài thơ là sức tưởng tượng dồi dào, táo bạo vừa phóng túng nhưng lại rất duyên dáng, tế nhị.
Đề 7: Cảm nhận về bài thơ “Muốn làm thằng Cuội” của Tản Đà thi sĩ.
Những năm hai mươi của thế kỉ XX, Tản Đà là thi bá trên thi đàn Việt Nam. Tài hoa, lãng mạn, thoát li và ngông là phong cách nghệ thuật của thi sĩ Tản Đà. Trong bài "Thú ăn chơi", thi sĩ viết:
"Trời sinh ra bác Tản Đà,
Quê hương thời có, cửa nhà thời không.
Nửa đời Nam, Bắc, Tây, Đông,
Bạn bè sum họp, vợ chồng biệt li.
Túi thơ đeo khắp ba kĩ,
Lạ chi rừng biển thiếu gì gió trăng...".
Bài “Muốn làm thằng Cuội" là bài thơ kiệt tác, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Tản Đà:
"Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi.
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.
Có bầu có bạn can chi tủi,
Cùng gió, cùng mây thế mới vui?
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám,
Tựa nhau trông xuống thế gian cườỉ"
1. Mở đầu bài thơ là một tiếng kêu "buồn lắm chị Hằng ơi!". Một tiếng kêu đầy ắp tâm sự. Thi sĩ Xuân Diệu đã nhận xét như vậy.
"Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi"
Nỗi buồn đến mức "buồn lắm"; trong cô đơn chỉ còn biết gọi chị Hằng để dãi bày tâm sự. Ba tiếng "chị Hằng ơi!" rất biểu cảm, ý vị làm cho giọng thơ thiết tha thân mật. Câu thơ man mác sự buồn và chán. Tản Đà đã từng viết: "Đời đáng chán hay không đúng chán?", nay thì đã "chán nửa rồi". Bài thơ in trong tập "Khối tình con" xuất bản năm 1916, qua đó ta thấy rõ nguyên cớ sâu xa, buồn và chán vì trần thế, vì cuộc đời xấu xa, vì chế độ thực dân nửa phong kiến ngột ngạt, thối nát, tù hãm. Vì công danh dở dang: "Tài cao, phận thấp, chí khí uất". Buồn vì non nước đang bị ngoại bang thống trị "Lệ ai giàn giụa với giang san". Đó là nỗi buồn của một thế hệ trong vòng nô lệ lầm than. Là một thi sĩ đa cảm, đa tình, nỗi buồn đã kết thành mối sầu:
"Nửa ngòi bút ngỗng bao sinh lụy,
Một mối tơ tầm mấy đoạn vương".
(Đề khối tình con thứ nhất)
2. Một chữ “xin” rất chân thành thiết tha, như nài nỉ:
"Cung quế đã ngồi đó chửa
Cành đa xin chị nhắc lên chơi"
Hai câu thực đã làm rõ đề bài "Muốn làm thẳng Cuội" ở nơi cung trăng, cung quế. Câu hỏi tu từ gợi nhiều man mác bâng khuâng. "Cành đa" đã trở thành cái thang bắc lên chín tầng mây xanh để "chị nhắc lên chơi" cung quế. Đó là giấc mộng thoát li. Mộng vì chán đời, ngán đời. Mộng có tính phủ định:
"Nghĩ đời lắm lúc không bằng mộng,
Tiếc mộng bao nhiêu lại ngán dời"
(Nhớ mộng)
3. Có lên được cung quế mới đỡ "tủi", mới thỏa thích "thế mới vui". Có chị Hằng làm bầu bạn. Có gió, có mây cùng chơi vơi. Điệp ngữ (có, cùng) và phép đối được vận dụng sáng tạo, có cả tiểu đối và bình đối. Cách ngắt nhịp 2/2/3 tạo nên giọng thơ nhún nhảy lâng lâng. Thấm đẫm vần thơ là chất phong tình lãng mạn. Đọc lên nghe rất thú vị:
"Có bầu, có bạn can chi tủi,
Cùng gió, cùng mây thế mới vui"
Đúng như nhà phê bình văn học Lê Thanh trong cuốn 'Tán Đủ thi sĩ" (1939) đã nhận xét: "Thơ của ông (Tán Đà) là chất thơ trong như lọc với những cảnh tượng không rõ rệt, những hình ảnh mờ mờ, ông vẽ những bức tranh tuyệt bút; với những tư tưởng lâng lâng, với những cảm giác mơ mộng, ông làm liên những câu thơ tuyệt mĩ...".
4. Cái ngông, cái phong tình của thi sĩ đã dâng lên cực điểm. Đêm rằm tháng tám, là đêm Trung thu đẹp nhất. Chẳng còn buồn vì cô đơn nữa, thi sĩ được cùng chị Hằng "Tựa nhau trông xuống thế gian cười". Cái cử chỉ "tựa nhau" và nụ cười ấy cũng là một giấc mộng đẹp. Thoáng một chút mỉa mai (cho trần thế) nhưng đầy thú vị vì được thoát li, được thỏa thích nơi cung quế:
"Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám,
Tựa nhan trông xuống thế gian cười"
Cái kết thoát li. Một cách nói phong tình, tài hoa. Có đọc bài thơ "Hầu Trời" mới thấy được, cảm được cái hay, cái thú vị của bài "Muốn làm thằng Cuội". Nửa đêm, Tản Đà tỉnh dậy đun nước pha trà, rồi ngâm thơ... Trời nghe giọng ngâm bèn sai hai tiên nữ xuống cõi trần rước thi sĩ bay lên. Thi sĩ đọc thơ cho Trời và bầy tiên nghe. Tất cả đều tấm tắc khen:
"Văn đã giàu thay, lại lắm lối
Trời nghe Trời cũng bật buồn cười!
Chư tiên ao ước tranh nhau luận
Anh gánh lên đây bán chợ Trời".
(Hầu Trời)
Bài "Muốn làm thằng Cuội" là một bài thơ có thi đề độc đáo, thú vị. Giọng thơ nhẹ nhàng, thanh thoát, chơi vơi. Trí tưởng tượng phong phú, kì diệu. Chất mộng áo, sắc màu lãng mạn thấm đẫm bài thơ.
Tuy có nói đến buồn, nói đến chán, có nói đến thoát li, có thấm vị phong tình... nhưng toàn bài thơ toát lên một tinh thần phú định thực tại xã hội thực dân nửa phong kiến xấu xa, khao khát được sống trong sạch hơn, thanh cao hơn, để mãi mãi giữ trọn thiên lương cao đẹp. Giá trị đích thực của bài thơ "Muốn làm thằng Cuội" là ở đó.
Trên đây là tất cả kiến thức và đề thi liên quan đến bài thơ Muốn làm thằng Cuội - Tản Đà mà các em cần nắm chắc trong chương trình ngữ văn lớp 8. Chúc các em ôn thi tốt và đạt được điểm cao!