"Tẩy xanh" - "Chiêu" để được vay ưu đãi tín dụng xanh
Theo Báo cáo từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tính đến cuối năm 2024, dư nợ tín dụng xanh tại Việt Nam đã đạt khoảng 650.000 tỷ đồng, tăng gần 17% so với năm 2023. Trong đó, phần lớn tập trung vào các lĩnh vực như năng lượng tái tạo, nông nghiệp công nghệ cao, xử lý nước thải, giao thông sạch và công trình xanh.
Mặc dù vậy theo khảo sát của Viện Chiến lược ngân hàng (thuộc NHNN) năm 2023 đã cho thấy có gần 40% ngân hàng thương mại không có quy trình xác minh độc lập tính “xanh” của các dự án vay vốn và phần lớn vẫn dựa vào tự khai của doanh nghiệp, hồ sơ kỹ thuật, đáng chú ý là chưa có cơ chế thẩm định môi trường chuyên sâu.
Các chuyên gia chính sách tín dụng đưa ra cảnh báo: “Không loại trừ tình trạng doanh nghiệp khai man hồ sơ, làm đẹp báo cáo môi trường để đạt điều kiện vay vốn ưu đãi. Trong khi đại đa số các ngân hàng lại thiếu công cụ kiểm chứng, dẫn đến nguy cơ nguồn vốn xanh bị cấp sai dự án và cũng không loại trừ việc ngân hàng và doanh nghiệp chủ động móc nối để bắt cóc nguồn tín dụng xanh.”

Việc “tẩy xanh” đã không mới, nhưng đang có dấu hiệu lan rộng trong lĩnh vực tín dụng với các biểu hiện như tự nhận dự án “xanh” khi chưa đạt tiêu chí, chia nhỏ dự án, thậm chí là làm giả báo cáo phát thải để được vay vốn.
Cụ thể là nhiều doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất truyền thống đã “làm mới” hồ sơ theo hướng sử dụng vật liệu tái chế, hệ thống chiếu sáng tiết kiệm điện và rồi gắn mác “dự án xanh”. Bên cạnh đó việc chia nhỏ dự án để qua mặt thẩm định cũng đã từng sảy ra với nhiều dự án để được vay ưu đãi.
Đáng báo động hơn cả là việc nhiều đơn vị dự án làm giả báo cáo phát thải. Cụ thể hơn là tại một cuộc kiểm tra đột xuất của Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) ở khu công nghiệp Biên Hòa năm 2023, một doanh nghiệp dệt may bị phát hiện làm giả báo cáo phát thải CO₂ để vay 50 tỷ đồng từ một ngân hàng thương mại theo gói tín dụng xanh. Sau khi thanh tra, toàn bộ hồ sơ bị đình chỉ, doanh nghiệp bị phạt 320 triệu đồng và buộc hoàn trả khoản vay sai phạm.
Nhấn mạnh về vấn đề này, Cục Thanh tra giám sát ngân hàng II (NHNN) từng nêu: “Không ít doanh nghiệp đang lợi dụng kẽ hở pháp lý để ‘khoác áo xanh’ cho những dự án không thân thiện với môi trường. Điều này không chỉ làm méo mó chính sách mà còn khiến tín dụng xanh mất niềm tin”. Theo báo cáo của Kiểm toán Nhà nước năm 2024, một số dự án được gắn mác “xanh” để nhận ưu đãi nhưng thực tế không đạt yêu cầu về đánh giá tác động môi trường (ĐTM), hoặc không có chứng chỉ quốc tế như EDGE, LEED, IFC Performance Standards...
Để những dự án “núp bóng xanh” không còn “đất sống”
Thực tiễn hiện nay chưa có bộ tiêu chuẩn quốc gia cho dự án xanh. Các ngân hàng áp dụng khung riêng hoặc dựa trên các tiêu chí của WB, IFC hoặc các tổ chức quốc tế. Điều này dẫn đến sự thiếu nhất quán và lỏng lẻo trong thẩm định. Bà Phạm Thị Thu Hà, Phó Kiểm toán trưởng Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành II nhận định: “Để một dự án được gọi là ‘xanh’, cần có tiêu chuẩn về phát thải, hiệu suất năng lượng, vòng đời sản phẩm, nhưng hiện chưa có văn bản pháp lý thống nhất. Nơi thì dựa vào cảm tính, nơi thì dựa vào giấy tờ tự khai.”
Bên cạnh đó là việc chưa có đơn vị thẩm định môi trường độc lập, tại Việt Nam, vai trò này gần như bỏ trống hoặc giao cho các tổ chức thiếu năng lực chuyên môn. Đồng thời là dấu hỏi về công tác và cơ chế hậu kiểm sau cấp vốn khi hầu hết các ngân hàng hiện mới dừng ở việc thẩm định hồ sơ trước khi giải ngân. Việc theo dõi thực tế triển khai, giám sát hiệu quả môi trường sau giải ngân gần như bị bỏ ngỏ. Theo báo cáo của Kiểm toán Nhà nước năm 2023, chỉ 7/28 ngân hàng được kiểm toán có cơ chế hậu kiểm riêng với tín dụng xanh.
Điều này dẫn đến hệ lụy là đánh mất vai trò dẫn dắt của nguồn vốn xanh cho sự nghiệp phát triển bền vững, phát triển xanh. “Tẩy xanh” nếu không được kiểm soát có thể khiến tín dụng xanh trở thành công cụ làm đẹp hồ sơ tài chính thay vì khuyến khích thực sự các hành vi bền vững.
Điều này kéo theo những hệ quả khiến dòng vốn bị sai lệch, chảy vào các dự án không đạt chuẩn, gây lãng phí nguồn lực quốc gia. Mất niềm tin từ quốc tế: Việt Nam hiện đang tiếp cận các gói hỗ trợ từ Quỹ Khí hậu Xanh (GCF), WB, ADB… Nếu minh bạch kém, các định chế tài chính quốc tế có thể siết chặt hoặc rút vốn. Ảnh hưởng tới chiến lược tăng trưởng xanh, mục tiêu giảm phát thải sẽ bị chậm lại nếu các khoản vay không phục vụ đúng mục tiêu môi trường.
Và rồi một số giải pháp cũng được đề ra nhằm hạn chế “tẩy xanh” như việc tăng cường kiểm soát, minh bạch và chuẩn hóa, xây dựng và ban hành bộ tiêu chí quốc gia về dự án xanh, hay việc thiết lập hệ thống thẩm định môi trường độc lập cũng là một trong những nhiệm vụ cấp bách hiện nay. Đồng thời việc bắt buộc hậu kiểm với tín dụng xanh và xử phạt nghiêm với các trường hợp gian lận là hết sức quan trọng.
Như vậy, tín dụng xanh chỉ phát huy được vai trò nếu được thực hiện một cách minh bạch, có giám sát chặt chẽ và loại trừ các hình thức “tẩy xanh” tinh vi. Nếu thiếu các công cụ kiểm soát hữu hiệu, rất dễ trở thành “vùng xám” cho những hành vi gian lận và ngụy tạo. Một cơ chế tín dụng xanh minh bạch, hiệu quả phải đi cùng hệ thống kiểm tra – giám sát mạnh mẽ, chế tài nghiêm khắc và đặc biệt là ứng dụng công nghệ số để kiểm soát rủi ro “xanh giả tạo” ngay từ đầu. Trên thực tế, nhiều quốc gia đã chứng minh rằng chuyển đổi số và hạ tầng dữ liệu số là yếu tố then chốt giúp tín dụng xanh phát triển đúng hướng.
Trong kỳ tới, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu và đi sâu vào vấn đề hạ tầng số và chuyển đổi số chìa khóa nào để bảo vệ và thúc đẩy tín dụng xanh? Những ngân hàng nào đang đi đầu? Cơ sở dữ liệu môi trường của Việt Nam đang thiếu gì? Và làm sao để xây dựng một hệ sinh thái tín dụng xanh số hóa – minh bạch – kết nối? Những câu hỏi đó sẽ được giải đáp bằng số liệu, câu chuyện thực tiễn và góc nhìn từ các chuyên gia chuyển đổi số, ngân hàng và cơ quan quản lý./.