Sáng 7/3, tại Hà Nội, Thủ tướng Phạm Minh Chính dự và phát biểu tại hội thảo kinh tế cấp cao nhân kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam-Nhật Bản. (Ảnh: Dương Giang/Vietnam+)
Sáng 7/3, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự và phát biểu tại Hội thảo kinh tế cấp cao Việt Nam-Nhật Bản có chủ đề “Khả năng mới của mối quan hệ Việt-Nhật hướng đến tương lai” nhân kỷ niệm 50 năm thiết lập ngoại giao Việt Nam-Nhật Bản (21/9/1973-21/9/2023).
Hội thảo do Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam, Liên đoàn các tổ chức kinh tế Nhật Bản, Ban Tổ chức kỷ niệm 50 năm quan hệ ngoại giao Việt Nam-Nhật Bản” đồng tổ chức.
Hội thảo được tổ chức trực tiếp tại Hà Nội, phát trực tuyến trên các nền tảng công nghệ; với sự tham dự của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng; Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam Yamada Takio; lãnh đạo các ban, bộ, ngành, cơ quan Trung ương; lãnh đạo các địa phương; các viện nghiên cứu, trường Đại học và doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam-Nhật Bản.
Hợp tác chân thành, chia sẻ, tin tưởng
Phát biểu chào mừng hội thảo, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh, sau 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, trải qua nhiều thăng trầm, biến cố của tình hình thế giới, khu vực và của mỗi nước, quan hệ hữu nghị, hợp tác Việt Nam-Nhật Bản không ngừng được củng cố, phát triển trên nhiều lĩnh vực.
Quan hệ chính trị, ngoại giao; hợp tác trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng ngày càng được tăng cường, đi vào chiều sâu, thực chất. Hoạt động văn hóa, giao lưu nhân dân đã trở thành một nền tảng quan trọng cho mối quan hệ ngày càng gắn bó và tin cậy giữa hai nước.
Đặc biệt, hợp tác kinh tế-thương mại-đầu tư luôn được đặc biệt chú trọng, đẩy mạnh toàn diện. Hai bên đã xây dựng nhiều khuôn khổ pháp lý quan trọng cho quan hệ song phương; đồng thời cùng là thành viên của các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).
“Đây chính là những hành lang quan trọng thúc đẩy quan hệ thương mại đầu tư giữa hai nước trên tinh thần hai bên cùng có lợi, bổ trợ lẫn nhau,” Thủ tướng nêu rõ.
Về hợp tác phát triển (ODA), theo Thủ tướng, sau hơn 30 năm, Nhật Bản trở thành quốc gia viện trợ ODA hàng đầu của Việt Nam với trên 2.700 tỷ yen vốn vay, gần 100 tỷ yen viện trợ không hoàn lại và 180 tỷ yen hỗ trợ cho hợp tác kỹ thuật; góp phần quan trọng trong việc phát triển các dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội bền vững; hỗ trợ chuyển giao công nghệ tiên tiến, đào tạo nguồn nhân lực cho Việt Nam.
Đến nay Nhật Bản có hơn 5.000 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư gần 70 tỷ USD, đứng thứ 3 trong số 141 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Việt Nam có 104 dự án đầu tư sang Nhật Bản với vốn đầu tư đăng ký đạt 19,2 triệu USD, đứng thứ 36 trong số 79 quốc gia và vùng lãnh thổ mà Việt Nam đầu tư ra nước ngoài.
Về thương mại, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hai nước năm 2022 đạt gần 50 tỷ USD, đưa Nhật Bản trở thành đối tác thương mại lớn thứ 4 của Việt Nam; trong đó Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản đạt gần 25 tỷ USD, nhập khẩu đạt gần 24 tỷ USD.
Bên cạnh đó, Sáng kiến chung Việt Nam-Nhật Bản, cơ chế hợp tác đặc biệt giữa hai Chính phủ, qua 20 năm thực hiện với 8 giai đoạn, đã đem lại nhiều kết quả tích cực trong cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh Việt Nam để thu hút các nhà đầu tư nói chung và nhà đầu tư Nhật Bản nói riêng.
“Việt Nam đánh giá cao sự quyết tâm, nghiêm túc, hiệu quả của các nhà đầu tư Nhật Bản tại Việt Nam khi hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam; đồng thời cảm nhận được sự chân thành, chia sẻ, tin tưởng và cam kết đồng hành của cộng đồng doanh nghiệp Nhật Bản,” Thủ tướng cho biết.
Người đứng đầu Chính phủ Việt Nam cho rằng là một trong những cường quốc trong ngành công nghiệp, dịch vụ của thế giới, Nhật Bản đã đạt được những thành tựu to lớn với nền kinh tế phát triển ở trình độ cao, sở hữu công nghệ tiên tiến hàng đầu thế giới và là một trong những nước đi đầu về ứng dụng khoa học công nghệ, phát triển kinh tế số, xã hội số.
Trong khi đó, nền kinh tế Việt Nam có độ mở cao, đang duy trì tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh, sở hữu nguồn nhân lực trẻ dồi dào và có nhu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất công nghiệp.
Cũng theo Thủ tướng, sau gần 40 năm đổi mới, mở cửa và hội nhập, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Quy mô nền kinh tế Việt Nam đạt 409 tỷ USD; thu nhập bình quân đầu người tăng từ 160 USD lên trên 4.100 USD.
Đến nay, Việt Nam đã ký kết 15 hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với trên 60 nước, vùng lãnh thổ, trong đó có những thị trường lớn nhất trên thế giới và ngày càng đa dạng hóa thị trường, sản phẩm, các chuỗi cung ứng.
Việt Nam thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, là bạn bè tốt, đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; quyết tâm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện, thực chất, hiệu quả; lấy nội lực là cơ bản, quyết định lâu dài, ngoại lực là quan trọng, đột phá.
Theo Thủ tướng, Việt Nam đang tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Năm 2022, Việt Nam đã đạt nhiều kết quả quan trọng như kinh tế vĩ mô duy trì ổn định; lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn được bảo đảm; tăng trưởng GDP 2022 đạt trên 8%; kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa đạt trên 732 tỷ USD; vốn FDI thực hiện đạt khoảng 22,4 tỷ USD, cao nhất trong 5 năm qua; an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện; quốc phòng, an ninh được tăng cường; độc lập, chủ quyền quốc gia được giữ vững; chính trị được duy trì ổn định; trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; đối ngoại được mở rộng, đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả.
“Có được những thành tựu đó là nhờ sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; sự ủng hộ, tham gia tích cực của nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp và sự quan tâm giúp đỡ của bạn bè quốc tế, trong đó có sự hỗ trợ của Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp Nhật Bản đang có quan hệ kinh tế với Việt Nam,” Thủ tướng khẳng định.
Thủ tướng Phạm Minh Chính chỉ rõ, bước sang thập kỷ thứ năm của quan hệ song phương, trên nền tảng quan hệ “Đối tác chiến lược toàn diện, tin cậy vì hòa bình và thịnh vượng ở châu Á,” tiềm năng hợp tác của hai nước chúng ta còn rất phong phú, còn nhiều dư địa hợp tác.
Thủ tướng cho rằng hội thảo này là sự kiện có ý nghĩa quan trọng để hai bên phân tích thời cơ, vận hội cũng như những khó khăn, thử thách mới; chia sẻ những bài học kinh nghiệm để từ đó đề ra những phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới; giúp Việt Nam-Nhật Bản đạt được mục tiêu, khát vọng phát triển bền vững ở mỗi nước, góp phần thúc đẩy mối quan hệ đối tác chiến lược tin cậy, thân thiết giữa Việt Nam và Nhật Bản.
Lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ
Với mục tiêu đó, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chia sẻ về các vấn đề phát triển xanh, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo.
Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại hội thảo kinh tế cấp cao Việt Nam-Nhật Bản. (Ảnh: Dương Giang/Vietnam+)
Về phát triển bền vững và tăng trưởng xanh, Thủ tưởng cho biết Việt Nam đã ban hành các cơ chế, chính sách khuyến khích cụ thể để huy động các nguồn tài chính, đặc biệt là nguồn tài chính từ khu vực tư nhân để thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững. Đồng thời, để chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, Việt Nam đã ban hành Chiến lược và Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050.
Việt Nam xây dựng các chính sách hỗ trợ, ưu đãi tài chính, phát triển thị trường vốn và tín dụng để thu hút các dự án đầu tư sử dụng hiệu quả năng lượng, trong đó ưu tiên năng lượng tái tạo, khuyến khích dự án sử dụng và ứng dụng công nghệ sạch, hiện đại, thúc đẩy phát triển nhanh các ngành kinh tế xanh.
Về chuyển đổi số, theo Thủ tướng, đây là xu thế tất yếu, một quá trình thay đổi sâu sắc các hoạt động kinh tế-xã hội. Trong chiến lược chuyển đổi số của Việt Nam, hợp tác công - tư cần được khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi. Chính phủ dẫn dắt và doanh nghiệp đồng hành trong nỗ lực chung thúc đẩy chuyển đổi số, xây dựng nền kinh tế số, xã hội số; trong đó lấy người dân là trung tâm, chủ thể, động lực và là mục tiêu của sự phát triển.
Đối với khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách tạo hành lang pháp lý, các ưu đãi đầu tư để khuyến khích, thúc đẩy các hoạt động khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo.
Theo Báo cáo Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2022 của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới, Việt Nam thuộc nhóm quốc gia đã đạt được những tiến bộ (thứ 3 khu vực Đông Nam Á). Hiện nay, nhiều tập đoàn doanh nghiệp lớn trên thế giới có hoạt động đầu tư trong lĩnh vực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, thành lập những Trung tâm Nghiên cứu và phát triển tại Việt Nam.
“Đây là những nội dung có ý nghĩa quan trọng, góp phần để Việt Nam đạt được mục tiêu: Đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển có nền công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao,” Thủ tướng nêu rõ.
Trên tinh thần đó, Thủ tướng Chính phủ đề nghị các bộ, ngành, nhà khoa học, tổ chức, doanh nghiệp của Nhật Bản và Việt Nam cùng nhau thảo luận, chia sẻ những kinh nghiệm để tham mưu giúp Chính phủ những giải pháp thiết thực, hướng đến sự phát triển bền vững, thịnh vượng của hai bên.
Thủ tướng kỳ vọng các doanh nghiệp FDI nói chung và Nhật Bản nói riêng sẽ tăng cường hơn nữa đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, vận dụng khoa học quản lý tiên tiến, hiệu quả; đẩy mạnh nghiên cứu-phát triển, đổi mới sáng tạo, đưa Việt Nam trở thành một trung tâm trong chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.
“Trên tinh thần “lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ,” Chính phủ Việt Nam một lần nữa khẳng định sẽ luôn đồng hành và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư Nhật Bản tiến hành đầu tư thành công, bền vững, lâu dài ở Việt Nam; các bạn thành công, chính là thành công của Việt Nam,” Thủ tướng nhấn mạnh.
Theo Thủ tướng Chính phủ, 50 năm qua, quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam và Nhật Bản đã không ngừng được củng cố, tăng cường, phát triển. Là hai nước Đông Á, hai quốc gia biển, hai nền kinh tế Việt-Nhật có tính bổ sung cao, còn nhiều dư địa và nhiều tiềm năng hợp tác trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong đổi mới công nghệ, chuyển đổi số, đa dạng chuỗi cung ứng.
Thủ tướng tin tưởng, phát huy mạnh mẽ truyền thống hợp tác, kết quả toàn diện và lòng chân thành, sự tin cậy lẫn nhau, quan hệ Việt Nam-Nhật Bản sẽ tiếp tục được củng cố bền chặt, hiệu quả, thực chất hơn nữa, mở ra kỷ nguyên mới trong quan hệ song phương, vì lợi ích của nhân dân hai nước, đóng góp vì hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển ở khu vực và trên thế giới.
Trong chương trình, hội thảo sẽ đánh giá tổng kết cuối kỳ giai đoạn 8 “Sáng kiến chung Việt Nam-Nhật Bản;" đánh giá hợp tác Việt Nam 50 năm qua và tầm nhìn trong quan hệ hai nước 50 năm tới.
Các đại biểu thảo luận sâu về tiềm năng, giải pháp thúc đẩy hợp tác Việt Nam-Nhật Bản trong hỗ trợ ODA, phát triển kinh tế xanh, kinh tế số, chuyển đổi năng lượng; thúc đẩy đổi mới sáng tạo với các dự án có hàm lượng công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn, có sự lan tỏa lớn và bảo vệ môi trường./.