Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vữngchắc Tổ quốc Việt Nam XHCN là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Bảo vệvững chắc chủ quyền biển, đảo Việt Nam là trách nhiệm thiêng liêngkhông chỉ đối với lịch sử dân tộc, mà còn là nhân tố quan trọng bảo đảm cho dântộc và đất nước ta phát triển bền vững. Đó là ý chí quyết tâm sắt đá không gìlay chuyển nổi của dân tộc Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Quan điểm tưtưởng cơ bản về bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam trong tình hình mới đượcthể hiện trong các Nghị quyết của Đảng, tập trung chủ yếu ở Nghị quyết về Chiếnlược bảo vệ Tổ quốc và Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020.
Trước hết, cần phát huy sức mạnh tổng hợp, giữ vữngđộc lập chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, toàn vẹn lãnh thổ, lãnhhải, vùng trời Tổ quốc.
Phát huy sức mạnh tổng hợp là quan điểm cơ bản củaĐảng và Nhà nước ta, nhằm động viên, quy tụ, phát huy cao độ sức mạnh của cácnhân tố chính trị, tinh thần, tư tưởng, văn hóa, quốc phòng, an ninh, kinh tế,đối ngoại; sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân và cả hệ thống chính trị, tạo rasức mạnh tổng hợp toàn dân tộc để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹnlãnh thổ của Tổ quốc.
Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng chỉrõ: “Mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủquyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển, đảo, biên giới,vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN…”. Để bảo vệ vữngchắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, cần kết hợp chặt chẽ các nhân tố cơ bảncủa sức mạnh quốc phòng gồm: Lực lượng, tiềm lực, thế trận quốc phòng gắn vớilực lượng, thế trận an ninh nhân dân trên các vùng biển, đảo; xây dựng biên chếtổ chức lực lượng phù hợp, bảo đảm chất lượng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, nângcao tiềm lực, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân gắn với lực lượng và thếtrận an ninh trên các vùng biển, đảo; chăm lo xây dựng thế trận lòng dân, tăngcường khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện “quân với dân một ý chí”; phát huyquyền làm chủ của nhân dân, đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, cải thiện, nângcao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, hạn chế tiêu cực, tạo sự đồngthuận xã hội... Tận dụng mọi tiềm năng, thế mạnh của biển, đảo, động viên, thuhút mọi nguồn lực để phát triển kinh tế, tăng cường quốc phòng, an ninh trênbiển; cả nguồn lực trong nước và nguồn lực ngoài nước, vừa hợp tác vừa đấutranh, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế biển và bảovệ vững chắc chủ quyền biển, đảo.
Tính chất nhất quán của quốc phòng Việt Nam là: Tựvệ, chính nghĩa, quốc phòng hòa bình, dựa vào sức mạnh của cả hệ thống chínhtrị và của toàn dân, LLVT làm nòng cốt, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong bốicảnh tình hình quốc tế và khu vực hiện nay đòi hỏi phải tập trung xây dựng cáclực lượng: Hải quân, Phòng không-Không quân, Pháo binh, Cảnh sát biển, Biênphòng, Dân quân tự vệ biển... có số lượng hợp lý, chất lượng cao; trong đó, cácbinh chủng kỹ thuật chiến đấu được trang bị ngày càng hiện đại, đáp ứng yêu cầunhiệm vụ quản lý, bảo vệ biển, đảo, là chỗ dựa vững chắc cho các hoạt động pháttriển kinh tế biển trong thời bình, đồng thời đáp ứng nhiệm vụ tác chiến trênbiển trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, kết hợp chặt chẽ các hình thức,biện pháp chính trị, ngoại giao, pháp lý, kinh tế, quốc phòng trong quản lývùng trời, bảo vệ biển, đảo.
Nguyện vọng và cũng là lợi ích cao nhất của dân tộcViệt Namlà giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển… Trước tìnhhình tranh chấp chủ quyền biển, đảo trên Biển Đông diễn ra phức tạp, đặt ra yêucầu cao phải tăng cường tổ chức lực lượng và phát huy sức mạnh của toàn dân,đấu tranh toàn diện, bằng các hình thức, biện pháp linh hoạt, thông qua chủtrương, kế hoạch chỉ đạo, điều hành tập trung thống nhất trên các lĩnh vựcchính trị, ngoại giao, pháp lý, kinh tế, quốc phòng. Sự kết hợp đó phải được tổchức thực hiện trong từng lực lượng, bộ, ngành và giữa các bộ, ngành, từ Trungương đến địa phương, kết hợp cả trong nước và ở ngoài nước.
Để kết hợp đấu tranh hiệu quả, cần xây dựng và hoànthiện hệ thống pháp luật biển, làm cơ sở cho việc xác lập chủ quyền, quyền chủquyền, quyền tài phán quốc gia; triển khai chặt chẽ việc phân vùng, bố trí dâncư ven biển với tổ chức các lực lượng bảo vệ chủ quyền biển đảo; ban hành chínhsách khuyến khích mạnh mẽ nhân dân định cư sinh sống ổn định lâu dài trên đảovà làm ăn trên biển dài ngày. Các địa phương có biển, đảo cần có chủ trương,giải pháp, kế hoạch phù hợp, nhằm tăng cường nghĩa vụ, trách nhiệm của cácdoanh nghiệp và nhân dân trong quản lý bảo vệ, khai thác các lợi ích từ biển.
Trên cơ sở các văn bản pháp lý công bố rộng rãi trongnước và quốc tế, cần kiên trì đấu tranh ngoại giao, đàm phán với các nước lánggiềng, các nước có tranh chấp thềm lục địa, vùng chồng lấn, phân chia vùng biểnlịch sử và đảo; xây dựng vùng biển hòa bình, ổn định và hợp tác cùng pháttriển.
Ba là, phát triển kinh tế biển phải gắnvới quản lý vùng trời, bảo vệ biển, đảo, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dângắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc trên biển.
Nghị quyết Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Phát triểnkinh tế biển toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, sớm đưa nước ta trở thànhquốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực, gắn với bảo đảm quốc phòng-an ninh(QP-AN) và hợp tác quốc tế”; Nghị quyết về Chiến lược biển Việt Nam, xác định:“Chiến lược biển phải kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hộivới bảo đảm quốc phòng, an ninh…”.
Phát triển kinh tế biển phải gắn với quản lý vùngtrời, bảo vệ biển, đảo, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trậnan ninh nhân dân, thực chất là quan điểm chỉ đạo: Kết hợp kinh tế với QP-AN,tăng cường sức mạnh QP-AN bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới. Mụcđích kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng, giữa xây dựng thế trận quốc phòng vớithế trận an ninh là làm cho kinh tế và quốc phòng đều mạnh, không làm cản trởnhau, tạo ra sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi mục tiêu Chiến lược biểnViệt Nam mà Đảng ta đã xác định.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lênCNXH (bổ sung, phát triển năm 2011 tại Đại hội XI của Đảng) chỉ rõ: “Kết hợpchặt chẽ kinh tế với QP-AN; QP-AN với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch,kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế-xã hội và trên từng địa bàn”. Như vậy,nội dung của sự kết hợp đó phải được triển khai tổ chức thực hiện cụ thể ở tấtcả các cấp: Trong quy hoạch tổng thể của quốc gia, kế hoạch phát triển kinhtế-xã hội, kế hoạch tăng cường lực lượng, tiềm lực, thế trận QP-AN, trong nhiệmvụ, trong phương án, kế hoạch tác chiến và đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển,đảo. Trong quy hoạch xây dựng các vùng biển, đảo ở địa bàn chiến lược, cácphương án bảo vệ cần làm tốt ngay từ khâu thẩm định các khu công nghiệp, kinhtế tập trung, các dự án ven biển, trên đảo; quy hoạch, xây dựng kết cấu hạ tầnggắn với xây dựng thế trận QP-AN, bao gồm các tuyến đường giao thông, hệ thốngcác sân bay, bến cảng, kho, hệ thống thông tin... không để ảnh hưởng đến thế bốtrí quân sự, thế trận QP-AN.
Làm tốt công tác tuyên truyền, nhằm tạo sự chuyểnbiến thực sự trong nhận thức của các cấp, ngành và trong nhân dân về vị trí vaitrò chiến lược của biển; làm cho tư duy về biển được thể hiện đậm nét, trướchết là trong các chủ trương, chính sách phát triển của các ngành có liên quanvà các địa phương có biển. Cần xây dựng, hoàn thiện cơ chế phối kết hợp hoạtđộng bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành tập trung, thống nhất, nhất làtrong xử lý các tình huống phức tạp trên vùng biển, đảo thuộc chủ quyền, quyềnchủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam.
Bốn là, giải quyết các bất đồng, tranh chấpthông qua thương lượng hòa bình, tôn trọng nhau, bình đẳng cùng có lợi.
Đây là nguyên tắc cơ bản trong quan hệ quốc tế, đượcghi trong Hiến chương Liên hợp quốc và Công ước Luật biển năm 1982. Đó là thànhquả đấu tranh chung của các dân tộc trên thế giới, trong đó có dân tộc Việt Nam.
Đối với các bất đồng, tranh chấp trên Biển Đông, chủtrương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là: Không sử dụng hoặc đe dọa sử dụngvũ lực, giải quyết mâu thuẫn thông qua thương lượng hòa bình trên cơ sở tôntrọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phù hợp với luật pháp quốc tế, đặcbiệt là Công ước về Luật biển năm 1982 của Liên hợp quốc, Tuyên bố về cách ứngxử của các bên ở Biển Đông (DOC), nhằm sớm tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâudài, đáp ứng lợi ích chính đáng của các bên, tiến tới xây dựng Biển Đông thànhvùng biển hòa bình, hợp tác và phát triển.
Biển, đảo Việt Nam là một bộ phận lãnh thổ thiêngliêng của Tổ quốc, cấu thành phạm vi chủ quyền thiêng liêng của quốc gia… Nhiệmvụ bảo vệ toàn vẹn chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc rất nặng nề, đòi hỏi phảithường xuyên quán triệt, nắm vững các quan điểm tư tưởng của Đảng, tổ chứctriển khai thực hiện chủ động, sáng tạo trong thực tiễn ở mọi cấp, ngành vàtoàn dân; phát huy cao nhất vai trò nòng cốt của các LLVT nhân dân, tạo sứcmạnh tổng hợp bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong giai đoạncách mạng mới.
(Theo QĐND)