Xuất phát từ những kếtquả của đề tài “Nghiên cứu biện pháp kỹ thuật tổng hợp tiết kiệm chi phí đầu vàođối với cà phê ở Tây Nguyên”, nhóm nghiên cứu thuộc Viện Khoa học Kỹ thuật Nônglâm nghiệp Tây Nguyên (WASI) đã tiến hành xây dựng mô hình áp dụng các giảipháp IPM (hệ thống quản lý dịch hại tổng hợp), ICM “3 giảm, 3 tăng” (giảm lượngnước tưới, giảm phân bón, giảm thuốc bảo vệ thực vật, tăng năng suất, tăng chấtlượng, tăng hiệu quả kinh tế) tại huyện Đắk Mil. Qua đó, nhiều hộ nông dântrồng cà phê đã tiết kiệm được chi phí trong sản xuất, nâng cao hiệu quả kinhtế, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái.
Một trong những môhình thành công nhất được xây dựng tại hộ ông Nguyễn Bá Lộc, xã Đắk Plao (ĐắkMil) từ nhiều năm nay đã được người dân trong vùng học tập và nhân rộng kếtquả. Ông Lộc cho biết: “Trước tình trạng thoái hóa giống, đất canh tác bị nghèokiệt do khai thác quá mức, tôi đã áp dụng biện pháp sản xuất cà phê theo hướngbền vững do các cán bộ kỹ thuật của WASI hướng dẫn. Hơn 10 năm trước, gia đìnhtôi là một trong những hộ áp dụng biện pháp ghép cải tạo vườn cà phê đầu tiêncủa tỉnh. Mỗi năm thực hiện 2 – 3 sào, đến nay, toàn bộ diện tích cà phê củagia đình đã được áp dụng biện pháp sản xuất tiên tiến này”.
Theo ông Lộc thì việcáp dụng ICM với các giải pháp kỹ thuật chủ yếu như ghép cải tạo thay giống xấu,bón phân theo độ phì đất và tưới nước theo độ ẩm đất được gắn với việc áp dụngIPM trong công tác bảo vệ thực vật. Việc ghép cải tạo thay giống xấu bằng nhữnggiống cà phê TR4, TR5, TR6, TR7 có năng suất cao, chất lượng tốt được cán bộnghiên cứu của WASI hướng dẫn chủ mô hình thực hiện.
Trên cơ sở các chỉtiêu độ phì được lấy mẫu phân tích, kết hợp với năng suất dự kiến của vườn cây,WASI đã tính toán lượng phân bón phù hợp và khuyến cáo bón phân theo “nguyêntắc 5 đúng” (bón đúng chuẩn loại phân, đúng nhu cầu sinh lý của cây, đúng thờivụ, thời tiết và đúng phương pháp).
Đặc biệt, đối với độẩm đất được xác định bằng máy đo độ ẩm nhanh, khi đất có độ ẩm đạt ngưỡng (27%)thì tiến hành tưới cho cà phê và lúc này tỷ lệ hoa nở lần đầu đạt trên 90%,lượng nước tưới từ 450 - 520 lít/cây/lần. Đồng thời, việc áp dụng biện pháp IPMđược thực hiện bằng cách tăng cường kiểm tra đồng ruộng để phát hiện kịp thờisâu bệnh hại, kết hợp phòng trừ bằng biện pháp cơ học như cắt bỏ, tiêu hủy bộphận bị sâu bệnh hại và chỉ phun thuốc khi có sâu bệnh hại phát triển, phun cụcbộ các cây bị hại theo “nguyên tắc 4 đúng” (đúng liều lượng, đúng nồng độ, đúnglúc và đúng cách). Ngoài ra, các chủ vườn còn được hướng dẫn thêm kỹ thuật tạohình thông thoáng, vệ sinh vườn cây, bón phân cân đối, hợp lý làm cho cây sinhtrưởng khỏe nhằm hạn chế sâu bệnh hại phát triển.
Kết quả từ việc ápdụng các biện pháp ICM, IPM tại gia đình ông Lộc cũng như của người dân trongvùng từ nhiều năm nay cho thấy, năng suất cà phê bình quân đạt khoảng 5,5 tấnnhân /ha, cá biệt có hộ đạt trên 7 tấn nhân/ha.
Trong khi đó, chi phíbón phân đã giảm được 9,62 triệu đồng/ha; chi phí tưới nước giảm 1,3 triệuđồng/ha; chi phí bảo vệ thực vật giảm 2,2 triệu đồng/ha… so với cách sản xuấtcà phê thông thường tại địa phương. Theo kết quả phân tích hiệu quả kinh tế củaWASI, nếu sản xuất cà phê theo cách cũ thì bà con phải đầu tư từ 45- 50 triệuđồng/ha, còn khi áp dụng các biện pháp IPM, ICM thì giảm được 12 triệu đồng/ha,lợi nhuận tăng thêm 17 triệu đồng/ha.
Tuy nhiên, hiện nay,việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật vào sản xuất cà phê trên địa bàn tỉnh vẫncòn hạn chế, nhất là việc sử dụng phân bón theo kinh nghiệm là vấn đề đáng quantâm. Theo WASI, trung bình nông dân bón thừa khoảng 42 kg N, 40 kg P2O5 và 22kg K2O so với năng suất đạt được, tương ứng với khoảng 2,2 triệu đồng /ha.
Trong đó, đạm và lânlà 2 loại phân bón có xu hướng thừa nhiều nhất. Hơn nữa, việc áp dụng mô hìnhIPM cho cà phê cũng chưa được áp dụng một cách rộng rãi. Hiện nhiều hộ nông dânvẫn còn sử dụng biện pháp hóa học để quản lý sâu bệnh hại mà chưa chú ý đến hệthống các giải pháp tổng hợp như dùng giống kháng bệnh rỉ sắt, bón phân cânđối, hợp lý để nâng cao khả năng chống chịu với sâu bệnh hại.
Trong sử dụng thuốchóa học thì nông dân không áp dụng phương thức phun khi có sâu bệnh hại, phuncục bộ và điều này đã làm tăng chi phí bảo vệ thực vật, gây ô nhiễm môi trườngvà sức khỏe của cộng đồng.
Vì vậy, để đảm bảođược năng suất, sản lượng ổn định hàng năm thì nông dân cần phải tăng cường ápdụng các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ trong quá trình sản xuất cà phê. Đồngthời, ngành nông nghiệp địa phương cần xây dựng kế hoạch tái canh hợp lý theotừng năm để từng bước đảm bảo được diện tích cà phê theo quy hoạch của tỉnh.Việc bón phân theo độ phì đất và năng suất cà phê đạt được là tiến bộ kỹ thuậtđang được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới, góp phần giảm chi phí đầu tư, hạgiá thành sản phẩm và tăng thu nhập cho nông hộ
Có thể nói, với điềukiện đất đai thường xuyên bị tác động mạnh mẽ bởi quá trình xói mòn và rửa trôithì việc áp dụng các giải pháp quản lý cây trồng tổng hợp cho cà phê sẽ gópphần giúp ngành cà phê của tỉnh phát triển theo hướng bền vững.
Văn Tâm