LTS: “Những năm tháng không thể nào quên” là hồi ký rất sốngđộng về những ngày mùa thu năm 1945 của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Báo Đắk Nôngxin trích giới thiệu đoạn viết về sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyênngôn Độc lập”, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa , nay là Cộng hòa xãhội chủ nghĩa Việt Nam.
Nhândân thành phố Hà Nội tập trung để tới Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945. Ảnhtư liệu |
Anh chị chủ nhà ở phốHàng Ngang đã dành cho chúng tôi tầng gác hai. Bác được mời lên tầng ba làmviệc cho tĩnh. Nhưng Bác không thích ở một mình, cùng ở với chúng tôi. Lúc đó,theo sự phân công của Bác, anh Tô và anh Hoan còn ở lại Tân Trào ít lâu. Đốivới những người giúp việc trong gia đình và hàng xóm thì Bác và chúng tôi là“các cụ và các ông ở nhà quê ra chơi”. Anh Ninh hồi đó có bộ râu rậm lười cạonên cũng được coi lầm là một “ông cụ”.
Tầng gác này vốn làphòng ăn và buồng tiếp khách nên không có bàn viết, Bác ngồi viết ở cái bàn ănrộng thênh thang. Chiếc máy chữ của Bác được đặt trên cái bàn vuông nhỏ, mặtbọc nỉ xanh kê ở góc buồng. Hết giờ làm việc, mỗi người kiếm một chỗ nghỉ luôntại đó. Người nằm ở đi-văng. Người ngủ trên những chiếc ghế kê ghép lại. Bácnghỉ trên một chiếc ghế xếp bằng vải trước kia vẫn dựng ở góc buồng.
Ngày 28, danh sáchChính phủ lâm thời được công bố trên các báo chí tại Hà Nội. Thành phần của Chínhphủ nói lên chủ trương đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân của Mặt trậnViệt Minh trong công cuộc xây dựng đất nước. Hôm trước đó, Bác đã gặp các vị Bộtrưởng trong Chính phủ lâm thời tại Bắc Bộ phủ. Ông Nguyễn Văn Tố, Bộ trưởng BộCứu tế xã hội, nhìn thấy ở phòng khách một cụ già, mặc chiếc quần “soóc” nhuộmnâu, đội cái mũ bọc vải vàng đã móp, đứng chống cây gậy, tươi cười gật đầu chàomình. Lát sau, ông mới biết đó chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thường vụ đã quyếtđịnh ngày ra mắt của Chính phủ lâm thời cũng là ngày nước Việt Nam chính thứccông bố giành quyền độc lập và thiết lập chính thể dân chủ cộng hòa. Ngoàiđường lối, chính sách của Chính phủ, phải chuẩn bị cả những lời thề để đưa ratrước nhân dân. Bác và Thường vụ trao đổi về một việc hệ trọng cần bắt tay vàolàm ngay: Thảo bản Tuyên ngôn Độc lập. Trong căn buồng nhỏ thiếu ánh sáng củangôi nhà sâu thâm, nằm giữa một trong ba mươi sáu phố phường cổ kính của HàNội, Bác ngồi làm việc, khi thì viết, khi thì đánh máy. Những người giúp việc tronggia đình không biết ông cụ có cặp mắt sáng, chiếc áo nâu bạc thường để hở khuyngực, hay hút thuốc lá, ngồi cặm cụi đó làm gì. Mỗi lần họ tới hỏi cụ có cầngì, cụ quay lại mỉm cười, chuyện trò đôi câu. Lần nào cụ cũng nói không có gìcần phải giúp đỡ. Họ không biết là mình đang chứng kiến những giờ phút lịch sử.
Một buổi sáng, Bác vàanh Nhân gọi anh em chúng tôi tới. Bản Tuyên ngôn lịch sử đã thảo xong, Bácmang đọc để thông qua tập thể. Như lời Bác nói lại sau này, đó là những giờphút sảng khoái nhất của Người. Hai mươi sáu năm trước, Bác đã tới Hội nghị hòabình Véc-xây, nêu lên những yêu cầu cấp thiết về dân sinh, dân chủ cho nhữngngười dân thuộc địa. Cả những yêu cầu tối thiểu đó cũng không được bọn đế quốcmảy may chấp nhận. Người đã thấy rõ một sự thật là không thể trông chờ ở lòngbác ái của các nhà tư bản. Người biết chỉ còn trông cậy vào cuộc đấu tranh, vàolực lượng của bản thân dân tộc mình. Giờ phút này, Người đang thay mặt cho cảdân tộc hái quả của tám mươi năm đấu tranh. Bữa đó, chúng tôi đã nhìn thấy rõniềm vui rạng rỡ trên khuôn mặt còn võ vàng của Người.
Mồng 2 tháng Chín năm1945.
Hà Nội tưng bừng màuđỏ. Một vùng trời bát ngát cờ đèn và hoa. Cờ bay đỏ những mái nhà, đỏ nhữngrặng cây, đỏ những mặt hồ. Biểu ngữ bằng các thứ tiếng Việt, Pháp, Anh, Hoa,Nga chăng khắp các đường phố: “Nước Việt Nam của người Việt Nam”, “Đả đảo chủnghĩa thực dân Pháp”, “Độc lập hay là chết”, “Ủng hộ Chính phủ lâm thời”, “Ủnghộ Chủ tịch Hồ Chí Minh”, “Hoan nghênh phái bộ Đồng minh”. Các nhà máy, các cửahiệu buôn to, nhỏ đều nghỉ việc. Chợ búa không họp. Mọi hoạt động buôn bán, sảnxuất của thành phố tạm ngừng. Đồng bào thủ đô già, trẻ, gái, trai đều xuốngđường. Mọi người đều thấy mình cần phải có mặt trong ngày hội lớn đầu tiên củađất nước.
Những dòng người đủmọi màu sắc, từ khắp các ngả tuôn về vườn hoa Ba Đình. Đội ngũ của những ngườithợ quần xanh, áo trắng, tràn đầy sức mạnh và niềm tin. Người lao động bìnhthường hôm nay đến ngày hội với tư thế đường hoàng của những người làm chủ đấtnước, làm chủ tương lai. Hàng chục vạn nông dân từ ngoại thành kéo vào. Nhữngchiến sĩ dân quân mang theo côn, kiếm, mã tấu. Có những người vác theo cả nhữngquả chuỳ đồng, những thanh long đao rút ra từ những giá vũ khí bày để trang trítrong các điện thờ. Trong hàng ngũ của các chị em phụ nữ nông thôn với những bộquần áo ngày hội, có những người vấn khăn vàng, mặc áo tứ thân, thắt lưng hoalý. Cũng chưa bao giờ người nông dân ở những làng xóm nghèo quanh Hà Nội đi vàothành phố với một niềm tự hào như ngày hôm ấy. Những cụ già vẻ mặt nghiêmtrang. Những cô gái thủ đô hớn hở, áo màu rực rỡ. Rộn ràng là các em thiếu nhi.Dù sự giàu nghèo của mỗi gia đình chưa đổi khác, nhưng từ ngày hôm nay, tất cảcác em đều trở thành những người chủ nhỏ của đất nước độc lập. Theo nhịp còi củacác anh, các chị phụ trách, các em khua rền trống ếch, giậm chân bước đều, hátvang những bài ca cách mạng. Những nhà sư, những ông cố đạo cũng rời nơi tuhành, xuống đường, xếp thành đội ngũ đến dự ngày hội lớn của dân tộc.
Nắng mùa thu rất đẹptrên quảng trường Ba Đình từ giờ phút này đã đi vào lịch sử. Bác đã trở về ramắt trước một triệu đồng bào. Sự kiện lịch sử này mới hôm nao còn ở trong ướcmơ. Ba tiếng HỒ CHÍ MINH không bao lâu đã vang đi khắp thế giới với nhữngtruyền thuyết mà người ta thường dành cho các bậc vĩ nhân. Nhưng vào ngày hômấy, cái tên mới của Bác vẫn còn mới lạ với nhiều đồng bào. Số người biết Bácchính là đồng chí Nguyễn Ái Quốc khi đó không nhiều.
Chủ tịch Hồ Chí Minh,vị Chủ tịch của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đã ra mắtđồng bào như một lãnh tụ lần đầu xuất hiện trước đông đảo quần chúng. Đó là mộtcụ già gầy gò, trán cao, mắt sáng, râu thưa. Cụ đội chiếc mũ đã cũ, mặc áoka-ki cao cổ, đi dép cao-su trắng. Mấy ngày hôm trước, một vấn đề được đặt ralà phải có một bộ quần áo đề Bác mặc khi Chính phủ ra mắt đồng bào. Cuối cùng,Bác đã chọn bộ quần áo này. Hai mươi bốn năm làm Chủ tịch nước, trong nhữngngày lễ lớn của dân tộc, trong những cuộc đi thăm nước ngoài, Hồ Chủ tịch baogiờ cũng xuất hiện với một hình ảnh giản dị, không thay đổi. Vẫn bộ quần áovải, trên ngực không một tấm huân chương, y như lần đầu Bác đã ra mắt đồng bào.
Ông cụ có dáng đinhanh nhẹn. Dáng đi này cũng làm cho đôi người lúc đó hơi ngạc nhiên. Họ đãkhông nhìn thấy ở vị Chủ tịch dáng đi trang trọng của những người sang. Giọngnói của ông cụ phảng phất giọng nói của một miền quê đất Nghệ An. Bác đã xuấthiện trước một triệu đồng bào ngày hôm đó như vậy. Lời nói của Bác điềm đạm,đầm ấm, khúc chiết, rõ ràng. Không phải là cái giọng hùng hồn người ta thườngđược nghe trong những ngày lễ long trọng. Nhưng người ta tìm thấy ngay ở đónhững tình cảm sâu sắc, ý chí kiên quyết; tất cả đều tràn đày sức sống; từngcâu, từng tiếng đi vào lòng người.
Buổi lễ kết thúc bằngnhững lời thề Độc lập:
- Chúng tôi, toàn thểdân Việt Nam xin thề: Kiênquyết một lòng ủng hộ Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa, ủng hộ Chủtịch Hồ Chí Minh
- Chúng tôi xin thề:Cùng Chính phủ giữ nền độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc, chống mọi mưu mô xâmlược, dù có phải chết cũng cam lòng
- Nếu Pháp đến xâmlược lần nữa thì chúng tôi xin thề:
“Không đi lính choPháp,
Không làm việc choPháp,
Không bán lương thựccho Pháp,
Không đưa đường choPháp!”
Một triệu con người,một triệu tiếng hô cùng hòa làm một. Đó là lời thề của toàn dân kiên quyết thựchiện lời Hồ Chủ tịch vừa đọc để kết thúc bản Tuyên ngôn: “Nước Việt Nam có quyềnđược hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toànthể dân tộc Việt Namquyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải đề giữ vững quyềntự do và độc lập ấy”.
T.H (s/t)