Trong quá trình hoạtđộng cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tìm kiếm, lựa chọn một hình thức, mộtchế độ nhà nước thích hợp, thúc đẩy dân tộc Việt Nam phát triển theo đúng quỹđạo tiến bộ xã hội. Để lựa chọn kiểu nhà nước theo xu thế vận động của lịch sử,Người đã dựa trên hai cơ sở chính: đó là tính chất nhân dân và khả năng của nhànước trong việc bảo đảm cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc, thỏa mãn các “nhucầu trần thế” của nhân dân và con người. Đây là việc lựa chọn kiểu nhà nước gắnbó chặt chẽ với mục tiêu giải phóng con người và phát triển xã hội.
Có thể nói, xây dựng một nhà nước do nhândân lao động làm chủ là tư tưởng nhất quán trong cuộc đời hoạt động cách mạngcủa Người. Tính chất dân chủ nhân dân là đặc trưng nổi bật của chính quyền nhànước kiểu mới. Trong đó, nhân dân là người nắm giữ mọi quyền lực, còn các cơquan nhà nước là người được ủy quyền, thực hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân,trở thành công bộc của nhân dân. Nhà nước dân chủ nhân dân do nhân dân trựctiếp tổ chức, xây dựng thông qua tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu. Thông quaviệc bầu Quốc hội và Chính phủ, nhân dân thực hiện quyền lực của mình bằng hìnhthức dân chủ trực tiếp và đại diện. Quyền lực tối cao của nhân dân không chỉthể hiện ở việc bầu cử Quốc hội, HĐND các cấp mà còn ở quyền bãi miễn, kiểmsoát, giám sát hoạt động của các đại biểu. Cơ chế dân chủ này nhằm làm cho Quốchội được trong sạch, giữ được phẩm chất, năng lực hoạt động. Chủ tịch Hồ ChíMinh nêu rõ: “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND nếunhững đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”. Với vaitrò làm chủ nhà nước, thực hiện sự ủy quyền của nhân dân, các đại biểu được bầura phải có trách nhiệm gần gũi, sâu sát để hiểu dân, lắng nghe ý kiến của nhândân, bàn và giải quyết những vấn đề thiết thực cho quốc kế, dân sinh. Là ngườilàm chủ nhà nước, nhân dân có quyền thông qua cơ chế dân chủ thực thi quyền lực,nhưng đồng thời cũng phải có nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ nhà nước, làm cho nhànước ngày càng hoàn thiện, trong sạch, vững mạnh. Được nhân dân tổ chức, xâydựng và là đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân thì nhà nước phải luônphát huy trách nhiệm, phục vụ quyền lợi của nhân dân. Ngay sau Cách mạng ThángTám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu bật sự khác nhau căn bản về tínhchất giữa Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa với các loại hình nhà nước trướcđó: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan chính phủ từ toàn quốc cho đến cáclàng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứkhông phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật.Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại đến dân, ta phảihết sức tránh”. Muốn đạt được mục đích đó, vấn đề đặt ra là phải bằng mọi cáchgiữ cho được định hướng hoạt động của nhà nước, bảo đảm cho bộ máy thật sựtrong sạch. Theo Người, nguy hại nhất là khi được nhân dân ủy quyền, một số cánbộ, công chức “đã vác mặt làm quan cách mạng”, kéo bè, kéo cánh để thu vén lợiích cá nhân. Vì vậy, chống đặc quyền, đặc lợi, khắc phục những tiêu cực trongbộ máy nhà nước là nhu cầu và việc làm thường xuyên, bảo đảm cho nhà nước thậtsự là công bộc của dân.
Trên thực tế, tư tưởng Hồ Chí Minh là nềntảng lý luận xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Việt Nam qua các thời kỳ cách mạng. Ngàynay, tư tưởng đó vẫn tiếp tục rọi sáng con đường xây dựng, hoàn thiện Nhà nướcpháp quyền xã hội chủ nghĩa, phục vụ sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiệnđại hóa đất nước. Sau nhiều năm đổi mới, cùng với sự đổi mới hệ thống chínhtrị, Nhà nước ta tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện, nền hành chính được cảicách một bước. Quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực ngày càng được pháthuy, một số chính sách và quy chế bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân, trước hếtlà ở cơ sở bước đầu được mở rộng, thực hiện. Tuy nhiên, bên cạnh những thànhtựu đáng tự hào, Nhà nước ta đang bộc lộ những hạn chế, yếu kém, thể hiện trênnhiều mặt, rõ nét nhất là cải cách nền hành chính tiến hành chậm, thiếu kiênquyết, hiệu quả thấp. Tổ chức bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, nhiều tầng nấctrung gian và những thủ tục hành chính phiền hà. Không ít trường hợp Trung ươngvà địa phương hành động không thống nhất, gây khó khăn cho việc phát triển kinhtế-xã hội, làm giảm động lực phát triển. Ở nhiều địa phương, quyền làm chủ củanhân dân còn bị vi phạm nghiêm trọng; hệ thống chính sách, pháp luật thiếu đồngbộ. Không ít cán bộ, công chức vừa kém về đạo đức, phẩm chất, vừa yếu về nănglực, trình độ chuyên môn và kỹ thuật nghiệp vụ; tình trạng lãng phí, quan liêucòn khá phổ biến. Đặc biệt, nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy nhà nước là mộtnguy cơ lớn, đe dọa sự sống còn của chế độ. Trong khi đó, sự nghiệp công nghiệphóa, hiện đại hóa đất nước đang được đẩy mạnh, ngày càng đi vào chiều sâu. Nềnkinh tế mở cửa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, theo địnhhướng xã hội chủ nghĩa đang có những thách thức mới. Nền văn hóa tiên tiến, đậmđà bản sắc dân tộc đang được xây dựng với quy mô rộng lớn hơn. Bối cảnh chínhtrị thế giới diễn biến phức tạp, có nhiều mặt khôn lường… Tất cả những điều đóđã và đang đòi hỏi cần phải nhanh chóng khắc phục những hạn chế, yếu kém, pháthuy hơn nữa vai trò, năng lực điều hành của Nhà nước, đáp ứng yêu cầu pháttriển của đất nước, xã hội.
Tường Mạnh