Giải trí

Bài văn mẫu phân tích truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành

Hùng Cường 04/03/2024 14:15

Rừng xà nu là một tác phẩm anh hùng ca hùng vĩ về con người và vùng đất Tây Nguyên. Phân tích truyện ngắn Rừng xà nu sẽ làm cho bạn nhận thức sâu sắc hơn về tình yêu quê hương và ý chí bất khuất của những người con Tây Nguyên trong cuộc chiến đấu chống lại thế lực đế quốc Mĩ qua hình ảnh độc đáo của rừng xà nu bạt ngàn và những nhân vật yêu nước như Tnú, cụ Mết, Dít.

Tìm hiểu chung về tác phẩm Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành

Đôi nét về tác giả Nguyễn Trung Thành

- Nguyễn Trung Thành bút danh khác là Nguyên Ngọc, tên khai sinh là Nguyễn Văn Báu, sinh năm 1932

- Quê quán: huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam

- Năm 1950, ông vào bộ đội, sau đó làm phóng viên báo Quân đội nhân dân Liên khu V. Năm 1962, ông tình nguyện trở về chiến trường miền Nam, hoạt động ở Quảng Nam và Tây Nguyên

- Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, ông tiếp tục cống hiến cho phong trào văn nghệ của nước nhà. Ông từng là Ủy viên Ban Chấp hành hội nhà văn Việt Nam, Tổng biên tập báo Văn nghệ

- Tác phẩm chính: Đất nước đứng lên (tác phẩm đạt giải Nhất – Giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954-1955), Rẻo cao (1961), Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc (tập truyện và kí, 1969), Đất Quảng (tiểu thuyết, 1971-1974)

- Đặc điểm sáng tác: những sáng tác của ông mang những đặc sắc của mảnh đất Tây Nguyên và đậm chất sử thi.

Đôi nét về tác phẩm Rừng Xà Nu

1. Hoàn cảnh ra đời

Truyện ngắn Rừng xà nu được viết năm 1965 (ra mắt lần đầu tiên trê tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng Trung Trung Bộ số 2/1965, sau đó in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc), là tác phẩm nổi tiếng nhất trong số các sáng tác của Nguyên Ngọc viết trong những năm tháng kháng chiến chống đế quốc Mĩ.

2. Tóm tắt văn bản

Sau ba năm đi "lực lượng", Tnú về thăm làng. Bé Heng gặp anh ở con nước lớn đẫn anh về. Con đường cũ, hai cái dốc, rừng lách chằng chịt hố chông, hầm chông, giàn thò sắc lạnh. Mặt trời chưa tắt thì anh về đến làng. Cụ Mết già làng và bà con dân làng reo lên mừng rỡ. Cụ Mết đưa anh về nhà ăn cơm. Từ nhà ưng vang lên một hồi, ba tiếng mõ dài, cả lũ làng cầm đuốc kéo tới nhà cụ Mết gặp Tnú. Có ông bà già. Nhiều trai tráng và lũ con gái. Đông nhất là lũ trẻ con. Có cả cô Dít, em gái Mai, nay là bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã đội. Ai cũng muốn ngồi gần anh Tnú. Dít thay mặt lũ làng xem giấy có chữ kí chỉ huy cho phép Tnú về thăm làng một đêm. Quanh bếp lửa rộn lên: 'Tốt lắm rồi!" "Một đêm thôi, mai lại đi rồi, ít quá, tiếc quá". Rồi cụ Mết kể lại cuộc đời Tnú cho lũ làng nghe. Tiếng nói rất trầm. "Anh Tnu đó, nó đi Giải phóng quân đánh giặc... Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta". Anh Xút bị giặc treo cổ, bà Nhan bị giặc chặt đầu, nó và em Mai đi vào rừng nuôi anh Quyết cán bộ. Anh dạy nó học chữ. Nó học chữ thì hay quên nhưng đi rừng làm liên lạc thì đầu nó sáng lạ lùng. Nó vượt thác, xé rừng mà, lọt tất cả vòng vây của giặc. Một lần Tnú vượt thác Đắc Nông thì bị giặc bắt, bị tra tấn, bị giặc đày đi Kông Tum. Ba năm sau, Tnú vượt ngục trốn về, lung đầy thương tích. Tnú đọc thư tuyệt mệnh của anh Quyết gửi cho dân làng Xô Man trước khi anh tử thương. Tnú đi bộ lên núi Ngọc Linh đem vẻ một gùi đá mài. Đêm đêm làng Xô Man thức mài vũ khí. Thằng Dục chỉ huy đồn Đắc Hà đưa lũ ác ổn về vây ráp làng. Tiếng kêu khóc vang dậy. Cụ Mết và trai tráng lánh vào rừng, bí mật bám theo giặc. Bọn giặc đã giết chết mẹ con Mai. Tay không, nhảy ra cứu vợ con, Tnú bị giặc bắt. Chúng lấy nhựa xà nu đốt cháy mười ngón tay anh. Cụ Mết và 10 thanh niên từ rừng xông ra, dùng mác, và rựa chcm chết tất cả 10 tên ác ôn. Thằng Dục ác ôn và xác lũ lính ngổn ngang quanh đống lửa xà nu trên nhà ưng. Từ đó, làng Xô Man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng. Sau đó, Tnú ra đi tìm cách mạng..." Cụ Mết ngừng kể, rồi hỏi Tnú đã giết được mấy thằng Diệm, mấy thằng Mĩ rồi? Anh kể chuyện đánh đồn, xông xuống hầm ngầm dùng tay bóp chết thằng chỉ huy... thằng Dục, "đúng chớ... chúng nó đứa nào cũng là thằng Dục!". Mưa rơi nặng hạt. Không ai nhận thấy đêm đã khuya. Sáng hôm sau cụ Mết và Dít tiễn Tnú lên đường. Ba người đứng nhìn những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời...

3. Bố cục (3 phần)

- Phần 1 (Từ đầu đến “những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời”): Hình ảnh rừng xà nu

- Phần 2 (Tiếp đó đến “giội lên khắp người như ngày trước”): Câu chuyện Tnú sau ba năm đi lực lượng về thăm làng

- Phần 3 (Còn lại): Câu chuyện về cuộc đời bi tráng của Tnú và câu chuyện chiến đấu của dân làng Xô Man được cụ Mết kể lại

4. Giá trị nội dung

Thông qua câu chuyện về những con người ở một bản làng hẻo lánh, bên những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận, tác giả đặt vấn đề có ý nghĩa lớn lao đối với dân tộc và thời đại: Để cho sự sống của nhân dân và đất nước mãi mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí chống lại kẻ thù tàn ác.

5. Giá trị nghệ thuật

- Đặc sắc, đậm đà chất sử thi hùng tráng. Chất sử thi được thể hiện ở đề tài, chủ đề, cốt truyện, nhân vật, hình ảnh thiên nhiên, các chi tiết nghệ thuật, giọng điệu:

+ Đề tài có ý nghĩa lịch sử: sự vùng dậy của dân làng Xô Man chống lại Mĩ Diệm

+ Bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, hoành tráng. Rừng xà nu làm nền cho bức tranh về cuộc đấu tranh chống giặc (Cả rừng ... ào ào rung động, lửa cháy khắp rừng).

+ Các nhân vật tiêu biểu được miêu tả trong bối cảnh trang nghiêm, hùng vĩ, vừa mang phong cách Tây Nguyên vừa mang phẩm chất của anh hùng thời đại.

- Kết cấu vòng tròn: mở đầu, kết thúc là hình ảnh rừng xà nu cùng với sự trở về của Tnú sau ba năm xa cách

- Cách thức trần thuật: kể theo hồi tưởng qua lời kể của cụ Mết (già làng), kể bên bếp lửa gợi nhớ lối kể " khan"- sử thi của các dân tộc Tây Nguyên, những bài "khan" được kể như những bài hát dài hát suốt đêm.

den-va-xanh-duong-dam-chuyen-nghiep-de-xuat-nganh-cong-nghiep-thuc-pham-ban-thuyet-trinh-su-menh-va-muc-tieu.jpg

Lập dàn ý chi tiết tác phẩm Rừng xà nu

Mở bài

- Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Trung Thành (tiểu sử, các tác phẩm chính, đặc điểm sáng tác…)

- Giới thiệu khái quát về Rừng xà nu (hoàn cảnh ra đời, giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật)

Thân bài

a. Hình tượng rừng xà nu

- Rừng xà nu là hình tượng xuất hiện xuyên suốt toàn bộ tác phẩm

- Rừng xà nu có mối quan hệ chặt chẽ và gắn bó sâu sắc với mảnh đất Tây Nguyên:

+ Có trong mối quan hệ hằng ngày: những bếp lửa đốt bằng cây xà nu, lửa mười đầu ngón tay Tnú tẩm bằng nhựa cây xà nu, khói xà nu làm thành bảng đen cho Tnú và Mai học chữ, dân làng Xô Man sống cùng cây xà nu, hẹn hò nhau dưới bóng cây xà nu và thậm chí chết họ cũng yên nghỉ bên cạnh cây xà nu

+ Xuất hiện cả trong những sự kiện trọng đại: cụ Mết kể chuyện cho dân làng nghe, ngọn lửa cây xà nu chiếu sáng cho cả dân làng mài giáo đánh giặc,…

+ Ăn sâu vào suy nghĩ, tiềm thức của người dân Xô Man

→ Mối quan hệ rất đặc biệt, gắn bó khăng khít và trở thành một phần máu thịt của dân làng Xô Man

- Rừng xà nu như một sinh thể, chịu sự tàn phá dữ dội của chiến tranh: cả rừng xà nu hàng vạn cây không cây nào là không bị thương, có những cây bị chặt đứt đổ ào ào như trận bão, vết thương không lành được loét mãi ra năm mười hôm thì cây chết,…

- Cây xà nu có sức sống mãnh liệt, sinh sôi, nảy nở rất nhanh và rất khỏe: “cạnh cây xà nu mới gục ngã đã có 4,5 cây con mọc lên”, “cây mẹ ngã đã có cây con mọc lên”, “nó vẫn sống đấy (…) Đố nó giết hết rừng xà nu này”

→ Hình ảnh biểu tượng cho sức sống mạnh mẽ và sự nối tiếp của các thế hệ con người Tây Nguyên

- Loại cây ham ánh sáng mặt trời: “Cũng có ít loại cây ham ánh sáng mặt trời tới thế (…) thơm mỡ màng”. Nó cũng giống như những con người Tây Nguyên luôn khao khát tự do và có một sức sống mãnh liệt

b. Các thế hệ anh hùng Tây Nguyên

* Cụ Mết

- Ngoại hình: râu dài tới ngực và vẫn đen bóng, mắt sáng và xếch ngược, vết sẹo ở má láng bóng, ngực căng như một cây xà nu lớn

- Tính cách: cụ Mết như một cây xà nu cổ thụ, luôn yêu thương và hết mực che chở cho dân làng. Cụ Mết là biểu tượng thế hệ anh hùng đi trước, hội tụ vẻ đẹp con người Tây Nguyên – quả quyết, gan dạ, sáng suốt, biết nhìn xa trông rộng.

* Tnú

- Tnú xuất hiện qua lời kể của cụ Mết

- Tnú là một người chiến sĩ:

+ Gan góc, gan lì, thông minh, sáng dạ: khi còn nhỏ cùng Mai vào rừng tiếp tế cho anh Quyết

+ Dũng cảm và tuyệt đối trung thành với cách mạng: bị lửa đốt mười đầu ngón tay Tnú không thèm kêu van, không khai ra, bị giặc bắt, tra tấn, lưng Tnú ngang dọc vết dao chém của kẻ thù nhưng anh vẫn gan góc, trung thành

+ Tính kỉ luật cao: cấp trên cho về một đêm thì Tnú về một đêm, sáng hôm sau lại đi ngay

- Tnú là người chồng, người cha hết mực yêu thương vợ, con: khi chúng kiến cảnh mẹ con Mai bị tra tấn “con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”, “Tnú nhảy xổ ra”

- Tnú là người con của buôn làng Xô Man, luôn gắn bó và đầy tình nghĩa với dân làng: xin về thăm làng một đêm, để nước suối của làng giội lên người

⇒ Tnú là người con ưu tú của núi rừng Tây Nguyên, là nòng cốt của cuộc kháng chiến, biết nén đau thương của cá nhân vì lợi ích của cả cộng đồng, dân tộc

* Nhân vật Dít và bé Heng

- Dít: Là người con gái gan dạ, dũng cảm, có sức chịu đựng phi thường, biết nén đau thương để nung nấu ý chí trả thù: đem gạo vào rừng cho dân làng, giặc bắn súng dọa vẫn không khai, chị mất nhưng không khóc,…

- Bé Heng: còn nhỏ tuổi nhưng đã tham gia làm nhiệm vụ cách mạng: thông thuộc từng hố chông, từng chiến điểm để dẫn đường cho cán bộ cách mạng, cho khách đến làng. Bé Heng là thế hệ tiếp nối, kế tục cha anh để đưa cuộc chiến tới thắng lợi cuối cùng.

⇒ Họ là một tập thể anh hùng, là sự nối tiếp nhau qua các thê hệ, biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Tây Nguyên: giàu tình yêu thương, căm thù giặc sâu sắc, trung thành với cách mạng.

Kết bài

Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm

Một số đề phân tích nội dung truyện ngắn Rừng xà nu

Đề 1: Cảm nhận về nhân vật Tnú trong truyện ngắn "Rừng xà nu"

“Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành là một bản anh hùng ca về cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào Tây Nguyên trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Tác phẩm đã thể hiện sự trưởng thành của một thế hệ cách mạng trẻ trung, mưu trí. Kiên cường, mỗi nhân vật mang một vẻ đẹp riêng tiêu biểu cho cốt cách, linh hồn của mảnh đất Tây Nguyên anh hùng. Nổi bật nhất là nhân vật Tnú, nhân vật trung tâm của tác phẩm.

Ngay từ nhỏ Tnú đã là cậu bé thông minh, lanh lợi, gan dạ. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, Tnú được dân làng Xô Man đùm bọc, nuôi dạy lớn khôn. Tnú đã chứng kiến bao cảnh đau thương của dân làng Xô Man: “Giặc treo cổ anh Sút lên cây vả đầu làng, chúng giết bà Nhan chặt đầu, cột tóc treo đầu súng” chỉ vì họ đã dám nuôi giấu cán bộ cách mạng. Tnú đến với cách mạng như một lẽ sống tự nhiên. Mới 10 tuổi, Tnú đã thay người lớn vào rừng tiếp tế cho cán bộ. Tnú nhớ như in lời cụ Mết: “Cán bộ là Đảng, Đảng còn thì núi nước này còn”. Khi đi liên lạc, Tnú không đi đường mòn, “cứ xé rừng mà đi lọt qua tất cả các ổ phục kích của giặc. Khi qua sông, Tnú không thích qua chỗ nước êm, cứ chọn chỗ thác mạnh mà bơi ngang, cưỡi trên thác băng băng như một con cá kình”. Trong một lần đi liên lạc, không may Tnú bị giặc bắt giam cầm ba năm, bị tra tấn dã man song vẫn cương quyết không khai nửa lời.

Khi trốn thoát khỏi ngục trở về với dân làng, Tnú đã trở thành một cán bộ cách mạng, trưởng thành về mọi mặt. Anh trở thành người lãnh đạo của dân làng Xô Man. Cùng với dân làng Tnú chuẩn bị giáo mác cho cuộc chiến đấu sắp tới. Tnú cũng gặp lại Mai - cô bạn gái năm xưa cùng đi liên lạc, đi tiếp tế cho cán bộ nay trở thành bạn đời của anh.

Tnú đã phải chịu đựng và vượt qua một bi kịch lớn về tình cảm. Bọn giặc kéo đến làng Xô Man lùng bắt Tnú nhưng không được. Chúng bắt Mai và đứa con vừa đầy tháng tuổi ra tra tấn. Bọn giặc dùng một cây sắt tra tấn mẹ con Mai: “ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”. Tnú đã không kìm nén được lòng mình, anh chồm lên xông vào bọn giặc với một tiếng thét dữ dội. Nhưng Tnú không cứu được mẹ con Mai, không bảo vệ được tình yêu và giọt máu của mình bởi anh chỉ có hai bàn tay trắng. Cả vợ và con đã bị giặc giết hại, Tnú đã phải chịu đựng nỗi đau mất mát lớn lao.

Tnú đã phải chịu đựng và vượt qua sự tra tấn tàn bạo của kẻ thù. Bọn giặc đã quấn giẻ tẩm dầu xà nu đốt 10 ngón tay Tnú để dập tắt cái “mộng cầm giáo mác” của dân làng Xô Man. Trong cuộc đối đầu quyết liệt này, phẩm chất kiên cường của Tnú càng tỏa sáng hơn bao giờ hết. “Mười ngón tay anh cháy như 10 ngọn đuốc. Lửa như cháy trong lồng ngực. Máu mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi”. Nhưng Tnú vẫn không kêu một tiếng “Người Cộng sản không thèm kêu van”. Tnú mở mắt nhìn vào kẻ thù trừng trừng đầy căm hận.

Hình ảnh 10 ngón tay Tnú rừng rực cháy như 10 ngọn đuốc đã trở thành biểu tượng cho nỗi đau thương, tinh thần bất khuất của con người và mảnh đất Tây Nguyên anh hùng. Mười ngọn đuốc từ tay Tnú đã châm bùng lên ngọn lửa nổi dậy đẩu tranh của dân làng Xô Man. Tnú thét lên một tiếng, chỉ một tiếng thội nhưng đã vang dội thành nhiều tiếng thét rung chuyển cả núi rừng. Cả làng Xô Man đã đứng dậy. “Cả rừng Xô Man ào ào rung động và lửa cháy khắp rừng”. Đau thương và căm thù đã chuyển hóa thành sức mạnh quật cường như một quy luật tất yếu “chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”.

Tnú trở thành một anh bộ đội của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam. Lửa xà nu đã tắt trên 10 đầu ngón tay Tnú. Tay anh mỗi ngón chỉ còn hai đốt như một chứng tích đầy căm hận mà anh mang theo suốt đời. Nhưng “tay còn hai đốt vẫn bắn súng được”. Tnú đi bộ đội lực lượng tham gia chiến đấu. Chính bàn tay có những ngón chỉ “còn hai đốt” ấy sau này đã bóp cổ thằng Dục (thằng ác ôn đã giết mẹ con Mai). Trong ánh đèn soi vào mặt thằng Dục, Tnú đã cho nó nhìn rõ bàn tay trừng phạt. Đối với anh bây giờ “bọn giặc đứa nào cũng là thằng Dục” bởi mối thù riêng của anh đã hòa vào mối thù chung của Tây Nguyên, của đất nước. Đó cũng là sự trưởng thành về nhận thức mà Tnú đã rút ra được từ nhiều nỗi đau của gia đình, của quê hương trong cuộc chiến khốc liệt này.

Tnú còn là một người có tính kỉ luật rất cao và giàu tình yêu thương. Trong ba năm đi lực lượng vũ trang, xa làng Xô Man, nỗi nhớ về quê hương day dứt trong lòng anh. Nhưng phải được cấp trên cho phép Tnú mới về thăm làng và chỉ được về đúng một đêm. Con người kiên nghị, gan góc, không biết run sợ, khuất phục trước bạo tàn cũng lại là con người rất giàu tình cảm. Bước chân về đến đầu làng anh xúc động mãnh liệt “cứ vấp mãi vào mấy cái gốc cây”. Tnú sung sướng tắm mình trong dòng nước mát của con suối. Vào tới nhà Ưng, lòng anh như náo nức những tiếng gọi thân thương với những cái tên quen thuộc, mộc mạc đã gắn bó với anh như ruột thịt. Tnú là đứa con yêu thương của tất cả dân làng Xô Man.

Câu chuyện về anh Tnú và sự trưởng thành của anh tiêu biểu cho phẩm chất tốt đẹp và con đường trưởng thành cách mạng của tất cả các dân tộc Tây Nguyên trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Tnú mang trong mình dòng máu của Đăm Săn, Sinh Nhã… dòng máu anh hùng thần thoại của xứ sở Tây Nguyên. Anh cũng mang sức mạnh của rừng xà nu hào hùng ngay cả trong đau đớn, bất diệt ngay trong sự hủy diệt. Tnú hiện lên trong tác phẩm như một nhân vật anh hùng mang đậm chất sử thi hoành tráng.

Qua nhân vật này, tác giả muốn biểu dương vẻ đẹp một thế hệ cách mạng trẻ trung, kiên cường, bất khuất, khắc sâu vào tâm can đời sau một chân lý “Chúng nó cầm súng, mình phải cầm giáo”. Đó là chân lý mà chúng ta đã chọn cho con đường cách mạng đi tới thắng lợi cuối cùng.

Đề 2: Phân tích vẻ đẹp của hình tượng cây xà nu

Tây Nguyên - mảnh đất hùng vĩ và thơ mộng, với những con người nồng hậu yêu thương mà kiên cường bất khuất, từ lâu đã là nguồn cảm hứng cho biết bao văn nhân nghệ sĩ. Mỗi người đều tìm thấy ở mảnh đất này một biểu tượng đẹp cho tâm hồn cất cánh, ngòi bút thăng hoa. Ngọc Anh có Bóng cây Kơnia như nỗi lòng thổn thức thiết tha của tình yêu thủy chung son sắt, Thu Bồn có Bài ca chim Chơ-rao, ngân vang khúc hát trong trẻo nồng đượm tình người chiến thắng... Còn Nguyễn Trung Thành lại đem đến cho ta hình tượng những Rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời như sức sống bền và bất diệt của nhân dân Tây Nguyên trong công cuộc chống Mĩ cứu nước.

Đọc Rừng xà nu, không chỉ những nhân vật như cụ Mết, Tnú, Dít, Mai tạo nên ấn tượng sâu sắc trong chúng ta, mà còn là cây xà nu - một hình tượng đặc sắc bao trùm toàn bộ thiên truyện ngắn này. Chính hình tượng cây xà nu tạo nên vẻ đẹp hùng tráng, chất sử thi lãng mạn cho câu chuyện về làng Xô Man bất khuất, kiên cường. Đó là hình tượng hàm chứa nhiều ý nghĩa tượng trưng. Qua hình tượng này, người đọc có thể thấy rõ sức sống kiên cường, sức sống mãnh liệt của con người Tây Nguyên nói riêng, của con người Việt nói chung trong nhừng ngày đánh Mĩ. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Trung Thành lại miêu tả thật cụ thể, thật chi tiết rừng xà nu bằng một thứ ngôn ngữ giàu chất thơ, bằng những “lời có cánh” với một cảm xúc say mê mãnh liệt như đã thấy trong tác phẩm. Gần hai mươi lần nhà văn đã viết về xà nu, dường như cây xà nu tham dự vào tất cả những sinh hoạt, những tâm tình, những buồn vui của con người Tây Nguyên trong cuộc chiến đấu anh dũng của họ.

Cả một câu chuyện dài, đau thương, bất khuất như một bản anh hùng ca về cuộc đời Tnú, cuộc đời dân làng Xô Man được kể trên nền chính của hình tượng cây xà nu. Cây xà nu, rừng xà nu như những con người, những tâm hồn, vừa là nhân chứng, vừa tham gia vào bản anh hùng ca, cũng vừa chịu đựng mọi gian nan, vất vả, đau thương do tội ác của kẻ thù, nhưng bất chấp tất cả, rừng xà nu vẫn vươn mình cường tráng, vẫn tồn tại bất chấp mọi đau thương: nó tượng trưng cho khát vọng tự do, khát vọng giai phóng, cho phẩm chất anh hùng và sức sống mãnh liệt của dân làng Xô Man, của nhân dân Tây Nguvên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.

Hình tượng cây xà nu hiện lên trong tác phẩm đầy chất thơ hùng tráng. Mở đầu và kết thúc câu chuyện là hình ảnh “hàng vạn cây xà nu” “sinh sôi nảy nở”, “rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng”... “đến hết tầm mắt cùng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời". Rừng xà nu là biểu tượng cho con người. Cây được miêu tả như con người trong sự ứng chiếu với con người, gợi ra những biểu tượng về đời sống, số phận và phẩm cách của con người - các thế hệ dân làng Xô Man đánh Mĩ.

Cây xà nu ham ánh sáng và khí trời, “nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng”, cũng như Tnú, như dân làng Xô Man yêu tự do. Rừng xà nu cũng như làng Xô Man, chịu nhiều đau thương bởi sự tàn ác của giặc: “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đúng ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”. Nhưng xà nu có sức sống thật mãnh liệt, không gì tàn phá nổi: “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn cây xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng trên bầu trời”, cũng như các thế hệ làng Xô Man, lớp này tiếp lớp khác đứng lên. Anh Quyết hi sinh thì có Tnú, Mai: Mai ngã xuống giữa tuổi tràn đầy sức sống, thì Dít lớn lên rất nhanh đến không ngờ, trở thành bí thư chi bộ, chính trị viên xã đội: rồi những bé Heng, thế hệ tiếp theo của Dít cũng đang lớn lên, tiếp tục cuộc chiến đấu. Đồng thời, ngược lại, nhiều chỗ miêu tả con người, nhà văn đã so sánh với cây xà nu. Cụ Mết thì “ngực căng như một cây xà nu lớn”, vết thương trên lưng Tnú do giặc tra tấn thì “ứa ra một giọt máu đậm, từ sáng đến chiều thì đặc quyện lại, tím thâm như nhựa xà nu”. Thủ pháp ấy trong miêu tả tạo nên một sự hòa nhập, tương ứng giữa con người và thiên nhiên trong một chất thơ hào hùng, tráng lệ. Nhà văn đã ví cụ Mết “như một cây xà nu lớn” bởi cụ là người hơn ai hết hiểu sự gắn bó của cây xà nu và mảnh đất đang sống, hiểu được sức mạnh tiềm tàng bất khuất của rừng cây cũng như dân làng Xô Man: “Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết hết rừng xà nu này!...”.

Cây xà nu gắn bó với con người và cuộc sống dân làng. Xà nu không chỉ có mặt trong đoạn mở đầu và kết thúc, nó còn hiện diện trong suốt câu chuyện về Tnú và làng Xô Man của anh. Xà nu có mặt trong đời sống hằng ngày như đã tự ngàn đời nay của dân làng: Ngọn lửa xà nu trong mối bếp; đống lửa ở nhà rông tập hợp cả dân làng, ngọn đuốc xà nu cháy sáng soi những đoạn rừng đêm; khói xà nu hun tấm bảng đen cho anh Quyết đạt Tnú và Mai học chữ...; xà nu cũng tham dự vào những sự kiện quan trọng của cuộc kháng chiến chống Mĩ: ngọn đuốc xà nu cháy sáng trong tay cụ Mết và tất cả dân làng vào rừng lấy dao, mác, dụ, rựa đã giấu kĩ, chuẩn bị cho cuộc nổi dậy, và đêm đêm làng Xô Man thức, dưới ánh đuốc xà nu, mài vũ khí; giặc đốt hai bàn tay Tnú bằng giẻ tẩm nhựa xà nu...; cũng ngọn lửa từ các đuốc xà nu soi sáng rực cái đêm cả làng nổi dậy, soi rõ xác mười tên lính giặc bị giết ngổn ngang quanh đống lửa lớn giữa sân làng...

Cây xà nu còn là người chứng kiến sự giác ngộ, sự hi sinh thầm lặng, lòng dũng cảm, ý chí quật cường của dân làng Xô Man: “Đứng trên đồi xà nu gần con nước lớn. Suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng.”. Ánh lửa xà nu soi sáng lời căn dặn của anh Quyết: “Người còn sống phải chuyển dáo, mác, dụ, rựa, tên, ná... sẽ có ngày dùng tới”. Lửa xà nu thử thách ý chí cũng như lòng can đảm của Tnú: “không có gì đượm bằng nhựa xà nu... Mười đầu ngón tay đã thành mười ngọn đuốc... Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi...”. Căm thù trong anh cháy giần giật như nhựa xà nu bén nhạy để “bàn tay hận thù” thành “bàn tay trả thù” bóp chết tên ác ôn dưới ngách hầm. Câu chuyện cụ Mết kể phảng phất phong vị anh hùng ca. Đêm kể chuyện dưới ánh lửa xà nu chắc cũng giống như đêm già làng thường kể về các bài: anh hùng ca truyền thống của Tây Nguyên. Giọng điệu sử thi của Rừng xà nu bắt nguồn từ đó. Cây xà nu gắn với quá khứ, hiện tại anh hùng, gắn bó với mọi sinh hoạt, phong tục và đời sống văn hóa của dân tộc Tây Nguyên, khiến cho câu chuyện làng Xô Man đánh Mĩ lung linh sắc màu huyền thoại như Đam San, Xinh Nhã thuở nào...

Có thể nói hình tượng xà nu là mô típ chủ đạo của tác phẩm. Xà nu trở thành biểu tượng cho cuộc sống và phẩm chất của dân làng Xô Man. Đó là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Trung Thành. Nhà văn đã lựa chọn hình ảnh cây xà nu và đem lại cho nó những ý nghĩa mới, những vẻ đẹp mới để dựng lên bức tranh sử thi chống Mĩ của những con người kiên cường bất khuất nơi núi rừng hùng vĩ Tây Nguyên.

Đề 3: Phân tích rõ phẩm chất anh hùng của các nhân vật trong "Rừng xà nu"

Miền đất Tây Nguyên đi vào văn học đương đại Việt Nam bằng ngòi bút của Nguyễn Trung Thành và những tác phẩm thành công nhất của ông là những tác phẩm viết về đề tài Tây Nguyên. Tây Nguyên của thời kì kháng chiến chống Pháp hào hùng đi vào trang văn của Nguyên Ngọc bằng “tiểu thuyết đất nước đứng lên” và hơn một lần, Tây Nguyên trong những ngày sôi sục đánh Mỹ lại sống dậy với ngòi bút của ông bằng truyện ngắn “rừng xà nu” là truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Trung Thành bởi chất sử thi mà tác phẩm đạt tới. Được viết vào mùa hè năm 1965, trong những ngày bắt đầu cuộc đấu tranh cục bộ của Mĩ ở miền nam nước ta. Một điểm cơ bản tạo nên chất sử thi của tác phẩm chính là chân dung tập thể anh hùng khắc họa đậm nét.

Quả thực nội dung cơ bản của Rừng xà nu là chuyện đánh giặc của một làng ở Tây Nguyên, làng Xô Man bất khuất. Cả làng Xô Man đã kết thành một khối, từ trong máu lửa đứng lên làm cách mạng, bảo vệ cuộc sống tự do. Già, trẻ, trai, gái, thế hệ nào, lớp nào cũng có những đóng góp xứng đáng cho cuộc đấu tranh chung.

Anh Quyết là một nhà văn cách mạng, Nguyễn Trung Thành có nhận thức rất sâu sắc về tính chất toàn diện của cuộc chiến tranh nhân dân. Sự tàn bạo của kẻ thù đã không chừa ai thì hiển nhiên không có ai đứng ngoài cuộc chiến đấu, không ai không muốn đánh giặc lập công. Mỗi sự việc tích anh hùng đều có tính chất tập thể và ngược lại, trong chiến công chung, có đóng góp độc đáo, đáng ghi nhận mỗi cá nhân anh hùng. Nói về phong trào cách mạng người miền núi, có thể nào quên được hình ảnh những người cán bộ của Đảng được giao nhiệm vụ giữ gìn và khơi lên ngọn lửa đấu tranh vì độc lập tự do. Trong Rừng xà nu cán bộ Quyết là một hình ảnh đẹp, có nét tương đồng với hình ảnh anh Thế anh Cầm trong trong “đất nước đứng lên”, Anh Châu trong “ Vợ chồng A Phủ” trước đây trong những ngày đen tối anh đã bám trụ lại ở làng Xô Man nhen nhúm xây dựng phong trào. Anh đã duy trì niềm tin vào Đảng trong lòng đồng bào dân tộc, đã công phu bồi dưỡng giáo dục thế hệ kế tiếp. Những lời anh rủ rí với Tnú trong hốc đá giữa rừng đã trở thành lời nguyện thiêng liêng của chính Tnú: “ Sau này nếu Mỹ – Diệm giết anh Tnú phải làm cán bộ thay anh”. Khi anh Quyết hy sinh lời dặn dò của anh đã được Tnú và đồng bào Xô Man ghi lòng tạc dạ. Anh chính là người lãnh đạo tinh thần cuộc khởi nghĩa sau này của làng Xô Man.

Tây Nguyên là mọt miền đất giàu truyền thống. Hạt giống cách mạng sở dĩ được nảy mầm và phát triển tươi tốt ở đây chính là nhờ truyền thống đó. Sức mạnh của truyền thống đã được biểu hiện qua hình tượng rất sinh động là cụ Mết. Trong một bài hồi ức chính của Nguyễn Trung Thành đã viết “ ông là cội nguồn. Là Tây Nguyên của thời đất nước đứng lên còn trường tồn đến hôm nay ông như lịch sử bao trùm, như không che lấp đi sự đi tới nối tiếp và mãnh liệt, ngày càng mãnh liệt lớn, sành sỏi và tự giác lớn của các thế hệ sau”. Đúng là không thể hình dung mọi cuộc sống chiến đấu của các đồng bào dân tộc Tây Nguyên mà lại thiếu đi hình ảnh như cụ Mết. Cụ là người chỉ huy trực tiếp cuộc kháng chiến ở làng Xô Man, một người chỉ huy sáng suốt giàu uy lực. Mỗi lời cụ Mết nói đều mang âm vang của sự từng trải, không phải là sự âm vang cua một cuộc đời người mà còn của cả một dân tộc. Chúng mạnh mẽ và dứt khoát như “ dao chém xuống đá, rạ chém xuống đất”; “Đảng còn núi nở này còn”, “nhớ lấy ghi lấy. Sau này tao chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu, chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo” cụ rất có ý thức về giáo dục cho lũ con cháu. Đã nhiều đêm bên bếp lửa nhà ưng, cụ kể cho đám thiếu nhi, lũ con nít nghe chuyện anh Tnú niềm tự hào của nàng Xô Man và thổi vào họ lòng yêu nước, lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng.

Những lời khen tặng của cụ tuy rất tiết kiệm nhưng có ý nghĩ động viên rất lớn. Những khi vừa ý cụ chỉ nói “được” mà không bao giờ khen tốt, giỏi, xong cũng chính cụ không giấu che niềm kiêu hãnh chính đáng về miền đất quê hương: “ không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã cây con mọc lên. Đố nó giết hết rừng xà nu này”. Hình ảnh cụ Mết cầm giáo chỉ huy đám thiếu niên diệt ngọn bọn lính ngụy để cứu Tnú và bắt đầu cuộc khởi nghĩa, đẹp một cách lẫm liệt cụ xứng đáng là trụ cột của cả làng Xô Man trong những thử thách ghê gớm nhất. Do hiểu sâu sắc điều đó khi cụ tả cụ Mết, tác giả thường mượn những đạo tính của cây xà nu biểu tượng của Tây Nguyên bất khuất làm đối tượng so sánh: “ ngực cụ căng như một cây xà nu lớn còn bàn tay nặng như sắt của cụ thì sần sùi như vỏ cây xà nu. Tiếng nói của cụ cũng thật đặc biệt; nặng trịch, ồ ồ, dội vang trong lòng ngực tưởng như âm vọng của cả núi rừng. Hình ảnh cụ Mết thực tế đã tạo thành một cơ sở quan trọng cho cái giọng trầm hùng vang vọng nhất sử thi mà tác phẩm đã có được.

Khi làng Xô Man đã có một cụ Mết thì tất yếu nó sẽ sinh ra những người như Tnú mà hành trình số phận hết sức tiêu biểu cho cuộc sống các dân tộc Tây Nguyên thời đánh Mỹ. Đời Tnú đã trải qua bạo thử thách khốc liệt thưở ấu thơ. Lúc còn là một đứa bé anh đã từng đi liên lạc cho cán bộ, từ xã xuống huyện. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, được cụ Mết và dân làng cưu mang đùm bọc, khi lớn lên Tnú rất xứng đáng là một con người của bản. Tnú là cậu bé thông minh gan dạ, tháo vát, cậu bé sẵn sàng lấy đá đập đầu để tự trừng phạt mình vì tội không thuộc chữ. Học chữ không thuộc nhưng đường đi rừng thì đầu nó sáng lạ lùng. Tnú không đi theo đường mòn vì ở đó có giặc phục kích. Tnú leo lên cây cao xác định phương hướng rồi đạp gai, xé rừng mà đi. Qua sông qua suối Tnú tránh chỗ nước êm vì chỗ ấy có Mĩ Diệm hay mai phục; Tnú chọn chỗ nước chảy siết đè lên sóng thác như một con cá kình bị giặc bắt, anh gan dạ không khai nửa lời dù bị tấm lưng non trẻ của anh đã phải hứng chịu sự vùi dập tà bào, phũ phàng nhất. Sau ba năm bị giam cầm, Tnú vượt ngục trở về với dân làng. Lúc ấy anh đã thành trở thành một chàng trai cao nguyên hoàn hảo: rắn chắc, cao lớn, cường tráng như một cây xà nu lớn Tnú chan hòa trong hạnh phúc bên Mai dịu dàng và đứa con trai đầu lòng giống bố như đúc. Nhưng rồi hạnh phúc của Tnú và Mai vừa bùng nở đã bị quân giặc trà đạp vũ phàng. Câu chuyện đau thương về cuộc đời Tnú thật sự bắt đầu khi lũ ác ôn kéo về làng ngăn chạn những bàn tay cầm vũ khí chống lại chúng. Để truy tìm Tnú, bọn giặc dùng ngón đòn độc hiểm cuối cùng: nó bắt Mai và đứa con Tnú không cứu được vợ con. Tận mắt anh phải nhìn cảnh Mai và đứa con chưa đầy tháng chết thê thảm dưới cây gậy sắt của quân giặc. Lúc ấy lòng căm hờn đã biến hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn anh đã lao vào lũ giặc với sức mạnh hùng thiêng anh không biết đã làm gì, chỉ thấy thằng giặc to béo nằm ngửa ra giữa sân, thằng Dục tháo chạy và nhiều người. Thế nhưng Tnú không cứu được Mai kiên cường kiêu hãnh có thừa không bao giờ chịu khuất phục cường quyền trong lồng ngực anh chan chứa yêu thương và sức mạnh quân thù. Nhưng ngần ấy phẩm chất vẫn chưa đủ để bảo vệ yêu thương và hòn máu mủ của đời anh. Vì sao vậy? vì anh chỉ có hai bàn tay không giữa mọt lũ giặc ác ôn khát máu đầy vũ khí, chỉ hai bàn tay không anh không cứu được vợ con và bản thân mình, chính cụ Mết đã rút ra kết luận quan trọng ấy. Khi kẻ tù đã cầm vũ khí mà mình tay không sẽ bị hủy diệt. Tấm thảm kịch đã diễn ra: Mười đầu ngón tay của Tnú bị đốt, giữa cao trào đau thương già làng Tây Nguyên đã khắc ghi vào lòng các thế hệ một chân lý “ chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo” khi trong tay người già người trẻ, người đàn ông, người đàn bà đã có một cây giáo, một cây mác, một cây rụ, tình hình sẽ khác: lửa xà nu sẽ tắt trên mười đầu ngón tay của Tnú, mười thằng giặc phải đền mạng, lửa đuốc xà nu soi rõ mười cái xác giặc ngổn ngang bên đống lửa lớn trên tràn nhà. Rừng Xô Man ào ào rung động “ tiếng chiêng nổi lên và nổi cháy khắp rừng”. Sự sống hồi sinh từ sự quật khởi đáp trả sự bạo tàn Tnú từ đau thương vụt lớn lên ra nhập vào lực lượng quân giải phóng, chiến đấu dũng cảm để bảo vệ sự sống trên quê hương để trả thù cho những người dân Xô Man đã bị giặc giết, trả thù cho bà Nhan, anh Sút, anh Quyết, cho Mai, cho đứa con của anh, cho mười đầu ngón tay anh. Bằng bàn tay mười đầu ngón cụt của mình anh đã lập được chiến công, đã giết được một thằng ác ôn và thằng Dục. Đối với anh bọn giặc đứa nào cũng là thằng Dục – tên đã giết vợ con anh và làm cho bàn tay anh không còn lành lặn khác họa nhân vật Tnú, tác giả rất chú ý miêu tả hai bàn tay anh, hai bàn tay mà mỗi ngón chỉ còn hai đốt, vẫn biết kể cho chúng ta nghe một người. Đó là bàn tay đau thương, bàn tay căm thù và bàn tay chiến thắng. Đó là bàn tay gan lì tuổi nhỏ, dám cầm cả cục đá đập vào trán khi thấy mình chưa học được chữ để sau này làm cán bộ giỏi. Đó là bàn tay yêu thương – Mai đã cầm trong ngày Tnú vượt ngục con tum trở về. Bàn tay ấy là chiến tích căm hờn về tội ác của kẻ thù và cũng là bàn tay chiến thắng. Nói về cuộc đời và cuộc sống của Tnú. Tác giả đã sử dụng một hình thức kể chuyện rất thích hợp. Lời kể của tác giả đã hoàn lẫn lời kể của cụ Mết và hồi tưởng của Tnú cách tự nhiên khiến cho sự tích của một thời hiện đại được lịch sử hóa, ngân lên hết cung bậc hào hùng, mê say của nó, nó có khả năng kích thích nôi cuốn rất mạnh. Thỉnh thoảng giữa câu chuyện, tác giả nhắc đến hình ảnh rừng xà nu ào ào rung động tạo lên không khí cộng hưởng sôi động và đầy sảng khoái.

Đọc rừng xà nu, ta không thể nào quên được nét mặt cương nghị rắn rỏi của Dít, đó cũng là một hình ảnh đẹp làm phát triển thêm chân dung tập thể anh hùng Dít có nhiều nét gần gũi với chị là Mai nhưng cũng có nhiều nét …. Phải chăng hoàn cảnh chiến đấu đã khiến chị phải dấu đi những nét dịu dàng đằm thắm nhưng rồi đến viên đạn thứ mười Dít chùi nước mắt, im bặt, bình thản nhìn bọn giặt. Có thể lý giải thế nào là sự cảm biến mau lẹ lạ lùng này. Đó không phải là sự chấn tĩnh bình thường, là sự lớn vượt mau lẹ của người trước thử thách. Dân tộc ta khi trong những ngày đánh Mĩ sôi động cô bé Dít ngày nào đã trưởng thành chị Dít bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã đội đầy uy tín. Chú bé Heg cũng đã đem chị Dít ra nhắc nhở Tnú “ đừng uống nước lạnh”, còn mọi người trong làng Xô Man thì đợi Dít canh giấy của Tnú sau mới yên tâm. Tnú được phép của chỉ huy cho về thăm nhà. Những chi tiết ấy thoạt đọc qua tưởng không ý nghĩa gì lắm mà kì thực quá sâu sắc, ý thức của một làng đánh giặc có tổ chức, quy củ. Dít đã trở thành một người đáng tin cậy của tập thể rất xứng đáng với miền đất đã có những người như cụ Mết và Tnú.

Trong tác phẩm, hình ảnh nhanh nhẹ hoạt bát và ngây thơ của chú bé Heg dù xuất hiện thoáng qua cũng đã để lại những ấn tượng tốt đẹp cho người đọc tin tưởng vào cuộc đấu tranh của dân tộc mình khi có những người như thế. Được tắm mình trong máu cách mạng, một lớp thiếu niên đã trưởng thành tiếp bước con đường của cha anh. Chưa ai hình dung nổi chú bé Heg kia lớn lên sẽ lập được những chiến công gì nhưng ta biết chắc chắn những người như chú sẽ không làm hổ mặt làng Xô Man giàu truyền thông, chú sẽ như cây xà nu lớn lên vượt qua bom đạn của kẻ thù, góp phần làm nên màu xanh trường cửu của những rừng Xà Nu tít tắp chạy đến chân trời.

Rừng Xà Nu là câu chuyện của một tập thể anh hùng có những nét riêng thích hợp riêng trong cuộc đời. Tuy nhiên tất cả họ đều giống nhau ở những phẩm chất cơ bản: gan dạ, trung thực, một lòng đi theo cách mạng. Chiến công của mỗi người tuy đa dạng mà lại thống nhất. Cuốn sử vẻ vang của làng Xô Man của Tây Nguyên không phải do riêng một người viết ra mà do tất cả mọi người. Bản trường ca của đại ngàn hùng vĩ không phải chỉ trỗi lên một giọng mà là sự tổng hòa của nhiều giọng. Anh Quyết, cụ Mết, anh Tnú, chị Mai, cô Dít, bé Heg là những nhân vật tiêu biểu; nhưng bê cạnh họ, đằng sau họ còn có bao người khác nữa cũng đã chịu “ngủ yên trong đời chật”, tất cả họ đều ti đua lập côn, đều muốn đóng góp phần mình vào sự nghiệp vĩ đại của dân tộc. Làng Xu Man sở dĩ có thể trưởng thành “thiên la địa võng” với quân thù là nhờ có sự góp sức của mọi người. Sau khi đi lực lượng, Tnú ghé về thăm làng. Anh không khỏi ngạc nhiên về cái làng xưa của mình “ đường cũ nay chằng chịt, hầm chông hố chông, cứ mười phút lại gặp một giàn thò chuẩn bị sẵn, cần thò căn dây ná, đánh một phát chắc chặt gẫy đôi ống quyển…” Sự ngạc nhiên của anh nói lên rằng: cuộc sống vẫn không ngừng đi lên, cuộc cách mạng của chúng ta không ngừng lớn mạnh. Nụ cười của Tnú trước cái cười “rất liếng” lộ ý khoe khoang rõ rệt của bé Heg về làng Xô Man thật là đẹp. Họ đã không hiểu nhau, sát cánh bên nhau, tiếp bước nhau trong công cuộc ra quân hùng vĩ của núi rừng, đất nước.

Xây dựng sôi động chân dung tập thể anh hùng là thành công, nổi bật của Nguyễn Trung Thành trong Tây Nguyên “ Rừng xà nu” với nó, tác phẩm đã phản ảnh khá sâu sắc khí thế cách mạng của nước ta trong công cuộc đối đầu lịch sử những năm 60. Ngày nay đọc lại tác phẩm vẫn còn sức sống hấp dẫn mạnh mẽ với chúng ta, giúp ta hiểu rõ hơn; vì sao Việt Nam đã trụ vững và chiến thắng trong công cuộc kháng chiến lâu dài gian nan ấy.

Đề 4: So sánh hình tượng nhân vật Việt trong tác phẩm "Những đứa con trong gia đình" và Tnú trong "Rừng xà nu"

Nguyễn Thi và Nguyễn Trung Thành là hai nhà văn tiêu biểu của dòng văn học hiện thực cách mạng. Với tài năng và lý tưởng cao đẹp của mình, hai nhà văn đã có những đóng góp quan trọng trong nhiệm vụ tìm kiếm, phát hiện những con người yêu nước và anh hùng trong quyền chúng nhân dân để phản ánh, ngợi ca, tuyên dương nhằm khích lệ tinh thần yêu nước và ý chí chiến đấu của toàn dân tộc trên mặt trận chống kẻ thù xâm lược. Nhân vật Việt và nhân vật Tnú rõ ràng là những phát hiện có ý nghĩa lớn lao đối với nền văn học và đối với cuộc kháng chiến chống giặc cứu nước của dân tộc.

Cả hai tác giả Nguyễn Trung Thành và Nguyễn Thi đều gắn bó với cuộc chiến đấu chống Mĩ, là những nhà văn chiến sĩ ở tuyến đầu máu lửa. Tác phẩm của họ mang hơi thở nóng hổi của cuộc chiến đấu với những hình tượng nhân vật sinh động, bước vào văn học từ thực tế chiến đấu. Qua việc khắc họa thành công nhân vật Việt và nhân vật Tnú, hai nhà văn đã giúp người đọc khám phá, khâm phục, tự hào trước vẻ đẹp anh hùng cách mạng của những con người bình thường, giản dị mà anh dũng, kiên cường và rất mực trung thành, thuỷ chung với cách mạng.

Đó là sự thể hiện của lòng yêu nước thiết tha, căm thù giặc sâu sắc, tinh thần chiến đấu bất khuất chống lại kẻ thù xâm lược để bảo vệ tổ quốc của con người Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, là sự trung thành với lý tưởng cách mạng được thử thách trong những hoàn cảnh khốc liệt, qua đó bộc lộ được vẻ đẹp của phẩm chất anh hùng có tính chất tiêu biểu cho cả dân tộc.

Nhân vật việt sinh ra trong một “gia đình” nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc, thủy chung son sắt với quê hương cách mạng. Chị em Chiến và Việt là hình ảnh tiêu biểu của thế hệ trẻ miền Nam, những người con của đại “gia đình” miền Nam ruột thịt trong những năm kháng chiến chống Mỹ ác liệt.

Mặc dù trong truyện ngắn nhân vật Việt được tác giả khắc họa là một chiến sĩ kiên cường dũng cảm trên mặt trận nhưng trong đời sống Việt vẫn là một chàng trai trẻ có tính cách hồn nhiên vô tư như bao chàng trai khác. Qua hồi ức của Việt khi còn ở nhà Việt là một chàng trai hồn nhiên trong trẻo. Khi chị Chiến dọa “thù cha chưa trả mà bỏ về thì chú chặt đầu” thì “Việt lăn kềnh ra ván cười khì khì”. Khi chị Chiến trao đổi bàn tính sắp xếp chuyện nhà thì Việt vẫn vô tư “chụp một con đom đóm úp vào trong lòng tay”. Hay khi chị Chiến trao đổi việc nhà thì Việt vừa khen thầm chị Chiến “chị nói nghe thật gọn” vừa “ngủ quên lúc nào không biết”. Khi ở chiến trường, đã trở thành một chiến sĩ dũng cảm rồi vẫn giữ bên mình cái ná thun bắn chim hồi nhỏ. Bị thương nằm một mình giữa rừng không sợ chết mà chỉ sợ ma và bóng đêm. Khắc họa nét tính cách hồn nhiên này của Việt tác giả muốn nhấn mạnh rằng Việt là một chiến sĩ dũng cảm anh hùng nhưng vẫn là một con người của đời thường như bao người trai trẻ khác. Tuy sống hồn nhiên vô tư nhưng Việt không vô tâm với những người xung quanh. Việt luôn yêu thương cha mẹ chị em trong gia đình và người thân cũng như đồng đội xung quanh. Trong kí ức của Việt luôn in đậm hình ảnh của má. Trong cơn chập chờn tỉnh thức khi bị thương nằm một mình giữa rừng hình ảnh đầu tiên hiện về là hình ảnh người má thân yêu. “Việt tỉnh dậy lần thứ tư trong đầu còn thoáng hình ảnh người mẹ” và “Việt ước gì bây giờ được gặp má”. Khi hai chị em cùng sắp xếp việc nhà cũng là lúc “cả hai chị em cùng nhớ đến má” và lo đưa bàn thờ của má gửi sang nhà chú Năm trước khi đi đánh giặc.

Đối với chị Chiến, Việt dành cho chị một tình thương sâu đậm. Việt đã coi chị như người mẹ, vâng lời sắp đặt việc nhà của chị. Tình thương chị Chiến được thể hiện rõ nhất khi hai chị em khiêng bàn thờ má sang nhà chú Năm “nghe tiếng chân chị Việt thấy lòng thương lạ”, “lần đầu tiên Việt muốn thấy lòng mình rõ như thế”.

Đối với những người thân yêu như chú Năm, anh Tám và những người đồng đội khác thì Việt vừa yêu thương vừa gắn bó tin cậy. Khi bị thương nằm giữa rừng Việt vừa nghĩ đến má vừa nhớ đến anh Tám “Việt muốn chạy thật nhanh” để gặp lại anh Tám níu chặt lấy anh mà khóc”. Việt hồn nhiên vô tư trong cuộc sống nhưng lại rất giàu lòng yêu thương gắn bó với mọi người, đó là một nét tính cách nổi bật ở nhân vật Việt.

Nhà văn Nguyễn Thi tập trung khắc họa nét tính cách nổi bật của nhân vật Việt là tính cách của một con người dũng cảm kiên cường. Khi còn ở nhà “ý nghĩ đi bộ đội luôn thôi thúc Việt” đến nỗi “Việt đi đâu chị Chiến cũng dòm chừng coi Việt có bọc quần áo theo không” vì sợ Việt trốn nhà đi bộ đội. Mặc cho chị Chiến can ngăn Việt vẫn không nhường chị đi bộ đội trước Việt vẫn giành chị để được đi. May nhờ chú Năm xin cho cả hai đi bộ đội thì mọi việc mới ổn.

Những ngày ở chiến trường Việt luôn tỏ ra là một chiến sĩ dũng cảm kiên cường trong một trận đánh ác liệt sau khi tiêu diệt được một xe bọc thép đầy Mỹ Việt bị thương nặng kiệt sức nằm giữa rừng vẫn ở trong tư thế chiến đấu “Việt vẫn còn đây nguyên tại vị trí này, đạn đã lên nòng ngón cái còn lại sẵn sàng nổ súng”. Không chỉ ở tư thế chiến đấu mà Việt còn kiên cường hơn thế tự lết thân mình về phía mặt trận “Việt đã bò đi được một đoạn cây súng đẩy đi trước, hai cùi tay lôi người theo chính trận đánh đang gọi Việt đến”. Việt mang nặng thù nhà nợ nước nên tinh thần chiến đấu luôn thôi thúc Việt và Việt đã chiến đấu đúng nghĩa của một người anh hùng. Việt là hình ảnh của một người thanh niên thời đại mới có khí phách kiên cường bất khuất.

Với kết cấu tác phẩm theo lối đồng hiện, với nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật đa dạng độc đáo và ngôn ngữ đời thường giàu chất Nam bộ, nhà văn đã xây dựng được nhân vật Việt một cách sinh động. Nhân vật Việt là mẫu người anh hùng của nhân dân Nam bộ thời đánh Mỹ. Họ vừa mang nặng mối thù chung và mối thù riêng đã ra đi chiến đấu đến hơi thở cuối cùng cho sự nghiệp giải phóng đất nước.

Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành là một kiệt tác văn chương thời chống Mỹ in đậm khuynh hướng sử thi hào hùng. Trong thế trận chiến tranh nhân dân thần kì của làng Xô Man, nhân vật Tnú mang tầm vóc một dũng sĩ phi thường đã để lại trong lòng ta nhiều rung cảm và ngưỡng mộ.

Có thể nói, nhân vật trung tâm của truyện Rừng xà nu và Tnú. Trong nhà ưng, xung quanh bếp lửa hồng, một đêm mưa có mặt đông đủ lũ làng, cụ Mết đặt bàn tay chắc nịch lên vai Tnú giới thiệu: “… nó đi giải phóng quân đánh giặc, nay nó về thăm làng một đêm… Nó là người Strá mình. Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ nhưng “bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Tnú vốn là một chú bé giàu cá tính. Ở trong rừng học chữ với anh Quyết, nó học không bằng Mai…, nó nổi nóng “đập bể cái bảng nứa…”, bỏ ra ngồi ngoài suối suốt ngày, rồi nó cầm một hòn đá “tự đập vào đầu. chảy máu ròng ròng “. Chữ thì Tnú hay quên, nhưng đi rừng, đi đường núi thì “đầu nó sáng lạ lùng”. Giặc vây ráp, phục kích, Tnú trèo lên cây cao nhìn khắp mọi phía, “xẻ rừng mà đi, lọt tất cả các vòng vây”. Vượt sông vượt suối, Tnú lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, nó “cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình”, và Tnú biết, “qua chỗ nước êm thẳng Mĩ – Diệm hay phục, chỗ nước mạnh nó không ngờ!”. Khi chẳng may sa vào tay giặc, họng súng của thằng giặc phục kích “chĩa vào tai lạnh ngắt”, Tnú đã nhanh trí “nuốt luôn cái thư” của anh Quyết gửi về huyện trong một ngọn lá dong. Lưng Tnú ngang dọc vết dao chém của bọn giặc, nhưng Tnú vẫn bất khuất hiên ngang. Ba năm bị tù trong ngục Kon Tum. Tnú đã vượt ngục trở về. Tnú đã đọc thư tuyệt mệnh của anh Quyết gửi dân làng Xô Man trước lúc anh tử thương. Anh Quyết đã dặn? “Tnú phải học chữ giỏi, thay tui làm cán bộ”. Lần thứ hai, Tnú lại lên núi Ngọc Linh, không phải đi lấy đá trắng về làm phân như ba năm trước, mà là đi lấy một gùi đá mài. Làng Xô Man đã chuẩn bị khởi nghĩa: phát rẫy trồng pom-chu xanh cả núi rừng, đêm đêm cả làng thức, mài giáo mác. Tnú đã trở thành chỉ huy đội du kích, làm cho thằng Dục ác ôn lồng lên, gầm lên. “Con cọp đó không giết sớm, nó làm loạn rừng núi này rồi!”. Vợ con anh đã bị giặc bắt, tra tấn dã man cho đến chết. Tnú cùng đội du kích rút vào trong rừng, anh đã nghiến răng ‘bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay”. Đôi mắt của anh trở thành “hai cục máu lớn”. Thương xót và căm thù tột độ, Tnú không kìm nổi lòng mình nữa, với hai bàn tay không, anh đã nhảy xổ vào lũ giặc mong cứu được vợ con. Tnú là một con người gang thép. Lũ giặc đã trói anh bằng dây rừng, dùng giẻ tẩm nhựa xà nu đốt cháy mười đầu ngón tay Tnú. Ngọn lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu mặn chát ở đầu lưỡi “cháy, cháy cả ruột đây rồi! Anh Quyết ơi? Cháy, không, Tnú sẽ không kêu? Không?”. Ngọn lửa xà nu và độ nóng của nó đã soi sáng lòng trung thành vô hạn, đã tôi luyện khí phách lẫm liệt của Tnú lên tầm vóc phi thường vĩ đại? Khi Tnú thét lên một tiếng dữ dội cũng là lúc tiếng chân “rầm rập” quanh nhà ưng, nhiều tiếng thét dữ dội hơn… Nhà ưng ào ào chuyển động. Tiếng hô của cụ Mết vang lên “Chém! Chém hết!”. Và lửa đã cháy khắp rừng…

Mẹ con Mai đã bị giặc giết. Lưng Tnú đầy vết dao của giặc chém. Mười ngón tay của anh, ngón nào cũng bị thằng Dục đốt ,cháy mất một đốt. Bà Nhan, anh Xút, anh Quyết. Những người thân yêu của anh đã bị giặc giết, vết thương lành, Tnú đi tìm cách mạng, đi Giải phóng quân để tìm diệt những thằng Dục ác ôn, đứa thì ờ trong đốn, đứa thì ngoan cố chui xuống hầm ngầm.

Tnú còn có một tâm hồn đẹp, chất phác, trong sáng. Tâm hồn anh vẫn ôm ấp hình bóng quê hương. Sau ba năm đi Giải phóng quân đánh giặc về thăm làng một đêm, cái gốc cây bên đường gợi lên trong lòng anh một kỉ niệm về Mai, “kỉ niệm đó cắt vào lòng anh một nhát dao nửa”. Tnú yêu làng, yêu những hố chông, những giàn thò sắc lạnh của làng anh, yêu con nước mát lạnh… Anh nhớ nhất làng, nhớ day dứt lòng anh suốt, ba năm chính là “tiếng chày chuyên cần, rộn rã của những người đàn bà và những cô gái Strá, của mẹ anh ngày xa xưa, của Mai của Dít, từ ngày lọt lòng anh đã nghe thấy tiếng chày ấy rồi.. ”. Tnú mang tầm vóc như một dũng sĩ trong sử thi. Lòng trung thành, khí phách anh hùng, tinh thần lẫm liệt bất khuất của Tnú làm chúng ta ngưỡng mộ; tâm hồn chất phác, trong sáng, thủy chung của anh đã làm cho chúng ta xúc động, yêu thương, Nguyễn Trung Thành xây dựng nhân vật Tnú bằng tất cả sự chắt lọc tâm hồn, tưởng như ông không viết, ông không tả… mà hình như, ông là một nghệ sĩ đúc tượng Tnú, một anh hùng thời đại bằng một chất liệu siêu kim loại !…

Rừng xà nu là một truyện ngắn thấm đẫm màu sắc sử thi, huyền thoại. Hình thức kể chuyện qua nhân vật cụ Mết già làng gợi lên không khí thiêng liêng cổ truyền. Mái nhà ưng là nơi tụ hội của dân làng Xô Man, cũng là nơi để họ trừng trị lũ ác ôn khát máu, lũ tay sai Mĩ – Diệm. Rừng động, lửa cháy, tiếng cồng âm vang, đại bác giặc, cây xà nu đổ ào ào như một trận bão, tiếng mài giáo mác… Tất cả thật hào hùng, bi tráng. Rừng xà nu đã nêu cao một nhân lý cách mạng: “Nghe rõ chưa, các con, rõ chưa, nhớ lấy. Sau này tao chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!”. Qua chủ đề ấy, cây xà nu, Tnú là những người dân làng Xô Man hiện lên mang tầm vóc dũng sĩ, tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng trong thời đại Hồ Chí Minh.

Qua phân tích, ta thấy, nhân vật Việt và nhân vật Tnú đều là những người con được sinh ra từ truyền thống bất khuất của gia đình, của quê hương, của dân tộc: Tnú là người con của làng Xô Man, nơi từng người dân đều hướng về cách mạng, bảo vệ cán bộ “ Đảng còn thì núi nước này còn” – Lời cụ Mết (Rừng xà nu). Việt sinh ra trong gia đình có truyền thống yêu nước, căm thù giặc: Cha là cán bộ cách mạng, má là người phụ nữ Nam bộ kiên cường trong đấu tranh, hai con tiếp nối lý tưởng của cha mẹ (Những đứa con trong gia đình).

Họ đã chịu nhiều đau thương, mất mát do kẻ thù gây ra, tiêu biểu cho đau thương mất mát của cả dân tộc: Tnú chứng kiến cảnh vợ con bị kẻ thù tra tấn đến chết, bản thân bị giặc đốt mười đầu ngón tay. Việt chứng kiến cái chết của ba má: ba bị chặt đầu, má chết vì đạn giặc.

Những đau thương đó hun đúc tinh thần chiến đấu, lòng căm thù giặc sâu sắc của con người Việt Nam. Biến đau thương thành sức mạnh chiến đấu cũng là một biểu hiện của chủ nghĩa anh hùng cách mạng: Tnú lên đường đi “lực lượng” dù mỗi ngón tay mất đi một đốt, Việt vào bộ đội, coi việc đánh giặc trả nợ nước thù nhà là lẽ sống. Họ chiến đấu bởi sức mạnh của lòng căm thù giặc, cũng là bởi sức mạnh của tình yêu thương, vì: chỉ có cầm vũ khí đứng lên, ta mới có thể bảo vệ được những gì thiêng liêng nhất, bảo vệ tình yêu và sự sống. Chân lý đó đã được minh chứng qua số phận và con đường cách mạng của những người dân Nam Bộ trong hai tác phẩm trên, chân lý đó cũng được rút ra từ thực tế đau thương mất mát nên nó càng có giá trị, càng phải khắc sâu vào lòng người.

Họ đều mang phẩm chất anh hùng, bất khuất, là những con người Việt Nam kiên trung trong cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Tnú từ nhỏ đã gan dạ, đi liên lạc bị giặc bắt được, tra tấn dã man vẫn không khai. Anh vượt ngục trở về, lại là người lãnh đạo thanh niên làng Xô Man chống giặc, bị đốt mười ngón tay vẫn không kêu rên trước mặt kẻ thù. Ở Tnú toát lên vẻ đẹp của người anh hùng trong sử thi Tây Nguyên và vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời đại chống Mỹ. Việt bị thương trong trận đánh lại lạc mất đơn vị, vẫn chắc tay súng quyết tâm tiêu diệt kẻ thù. Đối với chị, Việt ngây thơ, nhỏ bé. Còn trước kẻ thù, Việt vụt lớn lên, chững chạc trong tư thế người anh hùng.

Tóm lại, các nhân vật của hai truyện ngắn đều đã vượt lên nỗi đau và bi kịch cá nhân để sống có ích cho đất nước. Những đau thương của họ cũng chính là đau thương của dân tộc trong những năm tháng thương đau của chiến tranh. Tinh thần quả cảm, kiên cường của họ cũng chính là tinh thần của cả dân tộc Việt Nam, là biểu hiện cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời đại chống Mĩ hiện diện trên khắp mọi miền của đất nước. Từ nông thôn đến thành thị, từ miền ngược đến miền xuôi, từ đồng bằng đến miền núi. Tất cả tạo nên một sức mạnh long trời lở đất để “nhấn chìm lũ bán nước và quân cướp nước”. Cuộc đời và sự hi sinh của những con người Việt Nam anh hùng mãi mãi là bản anh hùng ca tuyệt đẹp cho các thế hệ Việt Nam noi theo. Thông qua phân tích, ta thấy, cả hai nhân vật đều phải chịu đựng những đau đớn về thân xác, đơn độc khi chiến đấu. Họ là hình mẫu của người chiến sĩ dũng cảm, kiên cường, tuyệt đối trung thành với cách mạng, đất nước; là biểu tượng đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mĩ.

Tuy nhiên, giữa hai nhân vật có nhiều điểm khác biệt. Nhân vật Việt chiến đấu với tinh thần quả cảm, lạc quan, hồn nhiên, yêu đời, tin tưởng vào cách mạng, đồng đội. Ở Việt, chủ yếu chỉ có nỗi đau về thể xác do bị thương. Nhân vật Tnú chiến đấu bằng ý chí quyết tâm và lòng căm thù giặc sâu sắc, do vừa trải qua những biến cố, mất mát trong đời sống cá nhân (vợ và con bị giặc giết chết ngay trước mắt). Ở Tnú, đó là nơi cộng hưởng cả nỗi đau thể xác và tinh thần.

“Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành và “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi là hai tác phẩm thành công trong sự khắc họa những hình tượng nhân vật tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng cao đẹp, cho lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc, sức mạnh chiến đấu của dân tộc Việt Nam chống giặc ngoại xâm. Bằng việc xây dựng thành công hình tượng nhân vật Việt và nhân vật Tnú, Nguyễn Thi và Nguyễn Trung Thành đã tạc nên những tượng đài lẫm liệt về người lính cụ Hồ kiên trung, bất khuất. Vượt lên nỗi mất mát đau thương, họ đã dũng liệt chiến đấu với kẻ thù, bảo vệ quê hương đất nước, làm sáng bừng chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Hai tác phẩm đạt đến tầm vóc sử thi hào hùng, tráng lệ, là hai khác trường ca vĩ đại của nền văn học Việt Nam thế kỉ XX.

x
    Nổi bật
        Mới nhất
        Bài văn mẫu phân tích truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO