Đề xuất loại bỏ cụm từ “trái đạo đức” trong quy định thu hồi tài sản
Dưới góc nhìn của các ngân hàng thương mại, kể từ khi Nghị quyết 42/2017/QH14 hết hiệu lực, việc xử lý nợ xấu trở nên vô cùng khó khăn do ngân hàng không còn quyền thu giữ tài sản bảo đảm.
Nhằm tháo gỡ vướng mắc này, Thủ tướng đã chỉ đạo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước khẩn trương xây dựng hồ sơ pháp lý để luật hóa Nghị quyết 42, trình Quốc hội xem xét trong kỳ họp tháng 5 tới.
Mới đây, Ngân hàng Nhà nước đã lấy ý kiến về dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng, trong đó đề xuất luật hóa một số nội dung của Nghị quyết 42. Theo dự thảo, quyền chủ nợ của tổ chức tín dụng sẽ được đảm bảo tốt hơn khi được công nhận quyền thu giữ tài sản bảo đảm, với điều kiện đáp ứng các yêu cầu cụ thể.
Tuy nhiên, dự thảo cũng quy định rằng trong quá trình thu giữ tài sản bảo đảm, các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán và xử lý nợ, cũng như đơn vị được ủy quyền không được thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật hoặc trái với đạo đức xã hội.
Liên quan đến quy định này, đại diện SHB đề xuất cơ quan soạn thảo cần bổ sung quy định chi tiết về các biện pháp mà tổ chức tín dụng bị cấm thực hiện khi thu giữ và xử lý tài sản bảo đảm.
Trong khi đó, VPBank lại kiến nghị bỏ cụm từ “trái đạo đức xã hội”, với lý do khái niệm này dù có được định nghĩa trong Bộ luật Dân sự nhưng vẫn mang tính chủ quan, có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của tổ chức tín dụng khi thực hiện thu giữ tài sản bảo đảm.
Ngân hàng này cho rằng nếu việc thu giữ không được thực hiện quyết liệt, chủ tài sản có thể tiếp tục chống đối, làm giảm hiệu quả xử lý nợ.
Dù vậy, Ngân hàng Nhà nước không chấp nhận đề xuất của VPBank, bởi đây là nguyên tắc cơ bản trong pháp luật dân sự.

Ngân hàng không được thu giữ tài sản bảo đảm nếu chưa thỏa thuận
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng nhằm luật hóa một số nội dung của Nghị quyết số 42/2017/QH14. Theo quy định, một trong những điều kiện để tổ chức tín dụng được thu giữ tài sản bảo đảm là: “Hợp đồng bảo đảm hoặc văn bản khác có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho bên nhận bảo đảm thu giữ tài sản bảo đảm khi xử lý nợ xấu theo quy định của pháp luật.”
Tuy nhiên, nhiều ngân hàng thương mại đề xuất được quyền thu giữ tài sản bảo đảm ngay cả khi không có thỏa thuận giữa các bên. Đại diện MB cho biết, phần lớn các hợp đồng bảo đảm ký kết trước đây không quy định nội dung này, do tại thời điểm ký kết, Nghị định 163/2006/NĐ-CP và sau đó là Bộ luật Dân sự 2015 đều không đề cập đến quyền thu giữ tài sản bảo đảm.
Vì vậy, để áp dụng quyền thu giữ theo quy định mới, các tổ chức tín dụng phải đàm phán sửa đổi hợp đồng với khách hàng, nhưng phần lớn khách hàng không hợp tác.
Tương tự, đại diện Vietcombank cũng cho rằng hầu hết khách hàng không đồng ý ký kết thỏa thuận bổ sung, khiến tổ chức tín dụng gặp nhiều khó khăn trong việc thu giữ tài sản bảo đảm theo Điều 7 Nghị quyết số 42 và Điều 198a Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng.
Đại diện VietinBank đề xuất Ngân hàng Nhà nước xem xét điều chỉnh quy định theo hướng cho phép thỏa thuận về quyền thu giữ tài sản bảo đảm có thể được ghi nhận trong hợp đồng bảo đảm hoặc văn bản khác nhằm tạo thuận lợi cho các bên trong việc xác lập thỏa thuận này.
Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước không chấp thuận đề xuất này. Theo quy định của Hiến pháp và Bộ luật Dân sự, quyền tài sản của tổ chức, cá nhân được pháp luật bảo vệ. Đồng thời, quyền đòi nợ của bên cho vay cũng là quyền hợp pháp, nhưng việc thực hiện phải tuân thủ quy định và dựa trên sự thỏa thuận giữa các bên khi giao kết hợp đồng.
Dự thảo Luật không chỉ hướng đến xử lý các hợp đồng đã ký mà còn áp dụng với các hợp đồng trong tương lai. Do đó, quy định yêu cầu hợp đồng bảo đảm phải có điều khoản về sự đồng ý của bên bảo đảm khi thực hiện quyền thu giữ tài sản là cần thiết, đảm bảo cân bằng quyền lợi giữa bên cho vay và bên vay.
Quy định này giúp các bên rõ ràng về quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng, đảm bảo tính minh bạch và tự do thỏa thuận.