Một số giải pháp phát triển kinh tế - xã hội bền vững vùng Tây Nguyên

04/04/2013 10:48

Khi bắt đầu triển khai một số nhiệm vụ khoa học và công nghệ là các đề tài nghiên cứu về Tây Nguyên, theo tôi phải xem xét lại định hướng mục tiêu, nội dung nghiên cứu và cách thức tổ chức xác định và thực hiện nhiệm vụ trong Chương trình nghiên cứu Tây Nguyên III như chúng ta đang triển khai...

Khi bắt đầu triển khaimột số nhiệm vụ khoa học và công nghệ là các đề tài nghiên cứu về Tây Nguyên,theo tôi phải xem xét lại định hướng mục tiêu, nội dung nghiên cứu và cách thứctổ chức xác định và thực hiện nhiệm vụ trong Chương trình nghiên cứu Tây NguyênIII như chúng ta đang triển khai.

Căn cứ vào kết quảnghiên cứu, từ đó so sánh những mặt đạt được, mặt tích cực và những bất lợi,tồn tại và giải pháp ngắn hạn, dài hạn cho sự phát triển Tây Nguyên trong tươnglai. Ðiều quan trọng của các công trình nghiên cứu trong Chương trình TâyNguyên III là phải đánh giá được hiện trạng, xác định được đường hướng pháttriển, hoạch định được chính sách để khắc phục những hạn chế, khiếm khuyếttrong phát triển Tây Nguyên.



Rừngcao su thuộc Công ty Cao su Daknoruco (Đắk Mil). Ảnh: Ngọc Tâm


Mục tiêu đặt ra là TâyNguyên phát triển bền vững cả về chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng – anninh. Muốn làm được như vậy cần thiết phải thực hiện một số vấn đề sau đây:

Đánh giá, quy hoạch, phát triển bền vững ngành nông – lâmnghiệp

Về tài nguyên rừng

Trước hết cần phảitiến hành đánh giá hệ thống thảm thực vật nói chung và diện tích các loại rừngcủa Tây Nguyên nói riêng. Ðánh giá về hiện trạng quản lý, khai thác và pháttriển hệ thống thảm thực vật này như thế, đã hợp lý chưa, khiếm khuyết bất cập làcái gì…

Tiến hành đánh giá hệthống rừng đặc dụng bao gồm các khu rừng Quốc gia, Khu bảo tồn thiên nhiên ởTây Nguyên hiện nay. Cần thiết phải đề xuất những giải pháp mạnh, cơ chế đặcbiệt để bảo vệ cho bằng được tài nguyên thiên nhiên, hệ sinh thái rừng, đa dạngsinh học, động thực vật quý hiếm. Phải có cơ chế tài chính, xử lý thật nghiêmđối với những ai xâm hại đến tài nguyên rừng nơi đây. Có thể cho phép thuầndưỡng một số voi rừng để đảm bảo số lượng đàn voi nhà phục vụ du lịch văn hóaTây Nguyên.

Ðối với rừng kinh tế,nên thực hiện việc tạm dừng khai thác rừng tự nhiên, tập trung công tác khoanhnuôi, bảo vệ tái sinh rừng, trồng rừng nguyên liệu phục vụ cho ngành côngnghiệp chế biến gỗ và các sản phẩm từ gỗ rừng trồng.

Hiện nay ở Tây Nguyênđã có hai nhà máy chế biến gỗ MDF tại An Khê Gia Lai và Ðắk Nông. Các côngtrình nghiên cứu của Chương trình Tây Nguyên III phải đề xuất được giải pháp vềqui hoạch, định hướng phát triển các vùng nguyên liệu phục vụ cho các nhà máychế biến gỗ này. Theo kinh nghiệm của tôi, các tỉnh Tây Nguyên có thể xây dựngthêm 2 – 3 nhà máy chế biến gỗ nữa với qui mô công suất khoảng 200.000 –300.000 m3 sản phẩm/năm.

Về công nghệ của cácnhà máy không nên dùng công nghệ sản xuất bột giấy hoặc sản xuất ván dăm, bởilẽ yếu tố kỹ thuật và môi trường cũng như thị trường tiêu thụ và lợi nhuậnthấp. Do đó phải sản xuất được sản phẩm cuối cùng là gỗ ván sợi. Nhất thiếtphải lực chọn công nghệ sản xuất gỗ từ MDF trở lên, định hướng công nghệ HDFtrong sản xuất chế biến gỗ.

Rừng phòng hộ: tậptrung bảo vệ diện tích rừng và thảm thực vật che phủ của lưu vực thượng nguồnsông Mê Kông; lưu vực các con sông của đông Trường Sơn. Loại rừng này quan tâmbảo vệ thảm thực vật tự nhiên, nơi không có rừng hoặc mất rừng thì tiến hànhtrồng mới. Giải pháp trồng rừng phòng hộ là đề xuất phương châm trồng loài câyđối lập nhu cầu sử dụng của con người để không bị chặt phá (ví dụ như cây si,đa, bồ đề, gạo, gòn, kơnia, sung….)

Quan tâm đến xử lý vàáp dụng chính sách trả phí tài nguyên rừng khi xây dựng các công trình côngnghiệp, thủy điện, thủy lợi.

Về các cây côngnghiệp, nông sản

Với diện tích và sảnlượng chiếm khoảng 90% với so toàn quốc, kim ngạch xuất khẩu khoảng 2 tỷ USDmỗi năm. Các tỉnh Tây Nguyên đã đưa Việt Namtrở thành nước xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới, cà phê đã trở thành sản phẩmchủ lực của Tây Nguyên và của Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay cà phê ởTây Nguyên đang phải đối mặt với một số vấn đề sau đây: Diện tích cà phê giàcỗi lớn; năng suất chưa ổn định và chưa đồng đều, chất lượng còn thấp do thuhoạch quả xanh và phơi trên nền đất; giá trị gia tăng và giá trị xuất khẩu cònthấp chưa tương xứng; lượng nước dùng cho canh tác cà phê lớn, môi trường sinhthái ở những nơi trồng cà phê bị thay đổi; mực nước ngầm hạ thấp, nước mặtthiếu; hệ sinh thái của vùng trồng cà phê không đảm bảo tính đa dạng và bềnvững, trồng cà phê độc canh, ít xen canh; khả năng tái canh và phục tráng càphê chưa có được giải pháp hữu hiệu; các doanh nghiệp thu mua cà phê nhân đanggặp khó khăn. Nhiều doanh nghiệp lớn có nguy cơ phá sản hàng nghìn tỷ đồng, hệthống tiêu thụ và thị trường cà phê trong nước không ổn định. Hiện đang xuấthiện các công ty, đầu nậu nước ngoài thao túng thị trường cà phê nhân Việt Nam.

Ngành cà phê Việt Namđang đứng trước thách thức lớn để có thể tồn tại và phát triển. Ban Chỉ đạo TâyNguyên nên báo cáo Chính phủ và đề xuất Chương trình Quốc gia phát triển bềnvững cây cà phê. Trong đó lưu ý tất cả các vấn đề từ mục tiêu phát triển, giảipháp kỹ thuật, tài chính, tổ chức sản xuất, qui hoạch, tiêu chuẩn chất lượng,thị trường, chế biến rang xay, cà phê hòa tan… cho phát triển cà phê.

Các loại cây khác nhưcao su, hồ tiêu, chè, dược liệu... cũng cần nghiên cứu có chính sách phát triểnphù hợp. Tây Nguyên có diện tích cây cao su lớn của nước ta, chỉ đứng sau vùngÐông Nam Bộ. Tuy nhiên, Tây Nguyên còn có tiềm năng lớn để mở rộng diện tíchtrồng cây cao su, hiện tại và tương lai sẽ trở thành một trung tâm phát triểncây cao su, sản xuất các sản phẩm từ cao su phục vụ phát triển kinh tế - xãhội. Tuy nhiên, để có thể phát triển cao su một cách bền vững, đem lại hiệu quảkinh tế cao nhất, cần có một số chính sách phát triển phù hợp.

Có thể giao cho cáccông ty, nông lâm trường, doanh nghiệp và nông hộ trồng và chế biến cao su ở nhữngnơi có điều kiện lập địa phù hợp với sinh thái của cao su. Có thể cho phépchuyển đổi rừng nghèo kiệt sang trồng cây cao su trên cơ sở quyết định về quihoạch phát triển cao su của cả nước theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

Ban hành chính sách,quan tâm phát triển xây dựng nhà máy chế biến mủ cao su dạng khô, sản xuất chếbiến các sản phẩm tiêu dùng, sản phẩm y tế… từ mủ cao su thiên nhiên. Xử lý môitrường từ việc trồng cho đến chế biến mủ cao su. Gắn việc xây dựng các nhà máyván sợi với việc qui hoạch trồng, khai thác và thanh lý cây cao su đã hết tuổikhai thác mủ làm nguyên liệu sản xuất gỗ.

Tiếp tục giao cho Tậpđoàn Cao su Việt Nam nghiên cứu bộ giống cây cao su cho năng suất mủ lớn, sảnlượng gỗ cao, thời gian khai thác kéo dài và có thể trồng thích nghi được ở mộtsố vùng sinh thái khác nhau. Khuyến khích phát triển diện tích lớn cao su củaTập đoàn cao su Việt Namtại Tây Nguyên.

Tây Nguyên cũng là mộtvùng có diện tích chè lớn của cả nước. Các địa phương tập trung nhiều chè ở TâyNguyên là Lâm Ðồng khoảng 30.000 ha; Gia Lai, Kon Tum và Ðắk Nông. Vùng Kon Tummới đây đã phát hiện cây chè cổ thụ hàng trăm tuổi, cần nghiên cứu xem xétnguồn gen, giống chè này.

Ðể sản phẩm của câychè ngày càng đem lại giá trị kinh tế cao cần thiết phải thực hiện một số việcsau đây: Nghiên cứu xây dựng qui hoạch phát triển cây chè ở Tây Nguyên. Xácđịnh cây chè có thể đem lại giá trị xuất khẩu hàng tỷ đô la mỗi năm; nghiên cứutái cơ cấu giống chè, mô hình tổ chức sản xuất, chế biến và tiêu thụ chè; tăngdiện tích trồng các giống chè có khả năng chế biến chè ô long ở những vùng cóđiều kiện phù hợp như Bảo Lộc, Lâm Ðồng, Ðắk Nông, Kon Tum… Ðẩy mạnh việc mởrộng thị trường xuất khẩu sản phẩm chè ở nước ngoài. Áp dụng các công nghệ sảnxuất hiện đại từ khâu trồng, chăm sóc, bón phân, che bóng, thu hái, chế biến…để đảm bảo có được sản phẩm chất lượng cao…

Ngoài ra, cần cónghiên cứu, đánh giá, điều tra tiềm năng các cây dược liệu tại Tây Nguyên. Câysâm Ngọc Linh, cây alipat, chè atiso,…là nguồn gen quý, cần bảo tồn và có thểphát triển sản xuất đại trà làm nguyên liệu sản xuất dược phẩm.

Lợi thế của Tây Nguyênlà phát triển chăn nuôi đại gia súc, cá nước lạnh trên các hồ thủy lợi, thủyđiện và các thủy vực cho phép ở một số địa phương như Kon Tum, Ðắk Nông, ÐắkLắk, Lâm Ðồng. Nơi đây đã và đang phát triển nuôi cá nước lạnh với qui mô côngnghiệp lớn, cần nghiên cứu tổng kết rút kinh nghiệm và qui hoạch phát triểntrong thời gian tới.

Phát triển nghề nuôiong mật, giá trị sản phẩm mật ong của Tây Nguyên chiếm khoảng 50% giá trị củatoàn quốc với kim ngạch xuất khẩu khoảng 100 triệu USD/năm. Hiện nay và tươnglai, cần thiết phải nghiên cứu công nghệ, kỹ thuật sản xuất sữa ong chúa, phấnhoa để sản xuất các thực phẩm chức năng, dược phẩm, trên cơ sở khai thác mùahoa tự nhiên của cây rừng và cây trồng khác. Ðảm bảo phát triển sản lượng lớn,ổn định và chất lượng cao để xuất khẩu và tiêu dùng trong nước.



Côngnhân vận hành nhà máy Thủy điện Đắk R'tíh (Gia Nghĩa, Đắk Nông).

Ảnh: Ngọc Tâm


Phát triển công nghiệp, cơ sở hạ tầng kỹ thuật

Tây Nguyên cần xem xétvà không nên phát triển thêm các nhà máy thủy điện nữa, tập trung công nghiệpkhai khoáng nhất là khai thác và chế biến bauxit, công nghệ chế biến alumintiên tiến, hiệu suất thu hồi nhôm cao, xử lý bùn đỏ tốt nhất, các loại khoángsản khác cần chờ thời cơ công nghệ tiên tiến để đạt hiệu quả kinh tế và hiệuquả môi trường cao nhất. Công nghiệp chế biến nông lâm sản, công nghiệp sảnxuất vật liệu xây dựng, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, cơ khí phục vụ sảnxuất nông lâm nghiệp…

Hiện nay và tương lai,cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ phát triển Tây Nguyên có ba vấn đề lớn cần quantâm đầu tư đó là giao thông và nước.

Vấn đề phát triển hạtầng giao thông: hiện nay ngoài đường bộ, đường hàng không từ các nơi đến TâyNguyên hiện chưa có phương tiện giao thông nào khác. Phát triển đường bộ nối cảnước với Tây Nguyên càng sớm càng tốt, hệ thống đường bộ hiện có đang xuống cấpnghiêm trọng và quá tải ở các Quốc lộ: 14, 19, đường Hồ Chí Minh, 26, 28… hệthống các con đường này cần phải được nâng cấp ngay ít nhất đạt chuẩn của đườngcấp 3 đồng bằng. Nên xây dựng đường Hồ Chí Minh là cao tốc song song với Quốclộ 1A.

Hệ thống đường liêntỉnh, đường liên huyện nhiều nơi đã xuống cấp, hư hỏng cần nâng cấp ngay. Ðảmbảo giao thông thông suốt ở các mùa trong năm. Sớm xây dựng đường giao thông ởTây Nguyên bằng bê tông xi măng. Sớm đưa dự án xây dựng đường sắt từ miền Trungvà Thành phố Hồ Chí Minh lên Tây Nguyên vào triển khai thực hiện.

Quan tâm giải quyếtvấn đề nước cho Tây Nguyên nhằm đáp ứng yêu cầu nước tưới cho cây nông nghiệpvà cây công nghiệp. Nước đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của người dânTây Nguyên trong cả mùa khô và mùa mưa. Xem xét lại cơ cấu cây trồng giảm nhucầu nước tưới, nâng cao hiệu quả sử dụng nước tưới cho cây trồng. Cần có giảipháp sử dụng các nguồn nước từ các hồ thủy điện, hồ thủy lợi một cách hiệu quảnhất.

Phát triển hệ thốngcung cấp điện, viễn thông: hiện nay mạng lưới điện và viễn thông ở Tây Nguyênthua kém rất nhiều so với các vùng khác, do vậy cần có giải pháp đầu tư sớm xâydựng các hệ thống truyền tải điện, mạng lưới viễn thông, dịch vụ cho các khudân cư, khu công nghiệp và đáp ứng qui hoạch phát triển kinh tế - xã hội củatừng địa phương.

Ngoài ra, cần có chínhsách luân chuyển, thu hút cán bộ; chính sách khuyến khích đầu tư trực tiếp nướcngoài (FDI) vào các tỉnh Tây Nguyên. Hiện nay, Tây Nguyên là vùng có số dự ánFDI thấp nhất cả nước. Kêu gọi các nhà đầu tư, thu hút các nguồn vốn xây dựngvà phát triển Tây Nguyên. Cần điều tra, đánh giá số lượng, loại hình các doanhnghiệp ở Tây Nguyên trong đó có loại hình doanh nghiệp quốc doanh, dân doanh vàso sánh với cả nước.

Ðánh giá về tổ chức,hiệu quả hoạt động của các nông lâm trường quốc doanh, diện tích đất đai, tàinguyên do đối tượng doanh nghiệp này quản lý. Thực tế cho thấy, trong những nămvừa qua, diện tích đất, tài nguyên các loại do loại hình doanh nghiệp này ở TâyNguyên quản lý là rất lớn nhưng hiệu quả chưa cao.

Vấn đề dân tộc, tôn giáo:

Phát triển dân số TâyNguyên ổn định, bền vững. Qui mô dân số ở Tây Nguyên như hiện nay là hợp lý,nên khuyến khích tăng cơ học dân số bằng nguồn nhân lực đã qua đào tạo, thợlành nghề, trình độ cao, dịch vụ…Giải pháp là tổ chức tốt các trường, viện ởTây Nguyên theo yêu cầu phát triển của các địa phương. Chính sách ưu đãi, thuhút, thay đổi chất lượng nguồn lao động của Tây Nguyên.

Các chính sách này cầnmạnh mẽ hơn, ưu đãi hơn, chi phí cao hơn cho con em đồng bào dân tộc theo hìnhthức tuyển sinh, nội trú trong hệ thống giáo dục quốc dân. Hiện nay lĩnh vựcnày đã cố gắng nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa tương xứng với điều kiện,tiềm năng. Có nguy cơ tạo ra những lỗ hổng về giáo dục, dẫn đến mất niềm tincủa đồng bào dân tộc.

Tôn giáo: điều quantrọng là tổ chức tốt tuyên truyền, vận động, quản lý tốt việc phát triển củacác loại hình tôn giáo, đạo giáo. Chúng ta không nên nói là người khác truyềnđạo trái phép mà có cách tuyên truyền chính xác hơn.

Gần đây có một xuhướng có thể nói là tiến bộ. Một bộ phận đồng bào dân tộc tại chỗ hướng theođạo Phật ngày càng nhiều, do vậy cần có nghiên cứu định hướng để đảm bảo tự dotín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng đối với họ.

Phải sớm có điều tra,đánh giá ban hành một số chính sách phù hợp có hiệu quả về vấn đề quan hệ, cơcấu dân tộc Tây Nguyên, ngăn ngừa nguy cơ xung đột sắc tộc và tạo sự đoàn kếtthống nhất, cùng tồn tại và phát triển của các dân tộc ít người với người kinhở Tây Nguyên.

T.B (t.h)

Theo baodaknong.org.vn
https://baodaknong.org.vn/kinh-te/mot-so-giai-phap-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-ben-vung-vung-tay-nguyen-22568.html
Copy Link
https://baodaknong.org.vn/kinh-te/mot-so-giai-phap-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-ben-vung-vung-tay-nguyen-22568.html
x

Nổi bật

    Mới nhất
    Một số giải pháp phát triển kinh tế - xã hội bền vững vùng Tây Nguyên
    • Mặc định
    POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO