Hướng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên đến giảm nghèo bền vững

16/02/2011 09:27

Nước ta được thế giới công nhận thoát nghèo, với mức thu nhập GDP đầu người gần 1.200 USD/năm. Song sự phân hóa giàu – nghèo giữa các vùng – miền vẫn còn chênh lệch lớn...

Nước tađược thế giới công nhận thoát nghèo, với mức thu nhập GDP đầu người gần 1.200USD/năm. Song sự phân hóa giàu – nghèo giữa các vùng – miền vẫn còn chênh lệchlớn. Tỷ lệ hộ nghèo ở các vùng sâu, vùng xa còn cao. Để rút ngắn khoảng chênhlệch này, đòi hỏi cần có những chính sách phát triển tổng thể của Nhà nước phùhợp tập quán địa phương và bản thân người dân.

Tỷ lệ đói nghèo ở Việt Namthấp? Và, vì sao xóa nghèo chưa vững chắc?

Năm 2010 là năm cuối của nhiệm kỳ 5 năm và cũng lànăm kết thúc các Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2006 - 2010, trong đócó nhiều chương trình mục tiêu quốc gia trực tiếp hoặc tác động gián tiếp đếnmục tiêu giảm nghèo. Bên cạnh nhiều chỉ tiêu kinh tế - xã hội đạt và vượt kếhoạch đề ra, Báo cáo Tình hình kinh tế, xã hội và Nhiệm vụ năm 2011 của Chínhphủ tại kỳ họp thứ tám, Quốc hội khóa XII chỉ rõ: “Còn một số chỉ tiêu môitrường chưa đạt”, trên lĩnh vực xã hội “kết quả giảm nghèo chưa bền vững, tỷ lệhộ cận nghèo và tái nghèo còn cao...”. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cuộcsống của người dân như: giá thuốc tân dược, sữa; vệ sinh an toàn thực phẩm;thiên tai lũ lụt; ô nhiễm môi trường; tình trạng thiếu điện và nước cho sinhhoạt, sản xuất; nạn bạo lực gia đình, học đường... vẫn là những lo lắng, bứcxúc trong xã hội. Khoảng cách thu nhập và mức sống giữa các nhóm dân cư, vùngmiền, giữa nông thôn và thành thị ngày càng chênh lệch. Cuộc sống của một bộphận nhân dân, nhất là nông dân ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, dân tộc thiểu sốchưa được cải thiện đáng kể.

Đánh giá về tỷ lệ đói nghèo ở nước ta nhận thấy hộnghèo, cận nghèo chủ yếu nằm ở khu vực nông thôn (chiếm 90% số hộ nghèo của cảnước, trong đó miền núi, vùng dân tộc thiểu số có trên 50% tổng số hộ nghèo). Ởmột số vùng tỷ lệ hộ nghèo cao như: Tây Bắc là 32,36%, Đông Bắc là 23,44%, TâyNguyên là 21,34% và đồng bằng sông Cửu Long là 12,58%. Cả nước còn 62 huyệnnghèo (chủ yếu là các huyện miền núi) có tỷ lệ hộ nghèo trên 50%.

Những năm qua, Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm đếncông tác xóa đói, giảm nghèo. Cùng với các chương trình đầu tư phát triển nôngnghiệp, nông thôn, Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo với 9 hợpphần được triển khai, có sự lồng ghép với Chương trình phát triển kinh tế - xãhội tại các xã đặc biệt khó khăn, Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm...làm cho công cuộc xóa đói giảm nghèo của Việt Nam đạt được những thành tựu đángkhích lệ.

Gần hai thập niên qua, Việt Nam được coi là “Điểm sáng” về côngtác xóa đói giảm nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, năm 1993 có 58,1% số hộnghèo, năm 2002 còn khoảng 28,4%, năm 2008 theo chuẩn mới tỷ lệ hộ nghèo của cảnước là 14,5% và đến năm 2010 tỷ lệ chỉ còn 9,5%. Song, tỷ lệ trên vẫn còn caovà chưa vững chắc, nhất là ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số, vùng thường xuyênbị thiên tai, lũ lụt, mất mùa. Qua thực tiễn ở tỉnh Đắk Nông, một địa phươngmiền núi có trên 30% đồng bào dân tộc thiểu số, tỷ lệ hộ nghèo còn rất cao sovới cả nước, chiếm 13,28%, trong đó, hộ nghèo người đồng bào dân tộc thiểu sốchiếm tỷ lệ là 35%.

Công cuộc xóa đói giảm nghèo ở nước ta dù đã “thoátkhỏi quốc gia nghèo” nhưng vẫn còn nhiều khó khăn và thực sự nan giải. Nguyênnhân do cơ chế, chính sách xóa đói giảm nghèo thiếu đồng bộ; tổ chức thực hiệncòn nhiều bất cập; tính chủ động, tự lực vươn lên thoát nghèo của người dânchưa được phát huy; tư tưởng bao cấp, thụ động, ỷ lại vẫn còn khá phổ biến.Ngoài ra, các điều kiện để giảm nghèo như đất đai, vốn, sức lao động, trình độtiếp cận và áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật còn thấp. Điều đáng nói, sảnxuất nông nghiệp - nguồn thu nhập chủ yếu của đồng bào vẫn còn nhỏ lẻ, manhmún, năng suất thấp, chất lượng kém, chưa tạo được thị trường để trao đổi hànghóa, kích thích sản xuất. Tập quán và thói quen tiêu dùng thiếu tính toán, “làmđồng nào, xào đồng ấy” vẫn phổ biến trong cộng đồng người dân tộc thiểu số.

Để giảm nghèo ở vùng đồng bào dântộc thiểu số bền vững

Giảm nghèo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số ngoàiviệc tiến hành bằng những giải pháp căn cơ, phù hợp với tập quán, trình độ sảnxuất và điều kiện kinh tế - xã hội của từng dân tộc, vùng, miền... còn đòi hỏisự đồng thuận từ hai phía. Người nghèo phải có ý thức tự lực vươn lên muốnthoát nghèo và nỗ lực thoát nghèo, chính quyền cần hướng dẫn tổ chức lại sảnxuất cho đồng bào một cách kiên trì, thiết thực và cụ thể:

Một là, khẩn trương giải quyết đủ đất sảnxuất cho đồng bào. Đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng hàng đầu đối vớingười nông dân, không có hay không đủ đất sản xuất thì sớm muộn họ rơi vàonghèo đói.

Đối với những người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên,đất đai, rừng núi là không gian sinh tồn, vốn đã gắn bó máu thịt với buôn làng,với cuộc sống của họ. Những tác động của các chính sách kinh tế - xã hội, áplực gia tăng dân số cơ học đều đi liền với nhu cầu về đất đai, trong khi tìnhhình đất đai, rừng núi ở Tây Nguyên luôn có sự biến động rất lớn. Cho đến nay,sau khi thực hiện Chương trình 132, 134 giải quyết đất ở, đất sản xuất, nướcsinh hoạt, nhà ở cho đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên, vẫn còn khoảng11.000 hộ thiếu đất sản xuất. Do đó, giải quyết đất đai cho đồng bào dân tộcthiểu số Tây Nguyên là nhiệm vụ tập trung hàng đầu của chính quyền các cấp.Những tranh chấp đất đai đã xẩy ra ở quy mô, mức độ khác nhau tại các tỉnh TâyNguyên thời gian qua, đòi hỏi cần phải giải quyết ngay để giải tỏa áp lực mâuthuẫn giữa người dân bản địa với các nhóm dân cư khác. Chính quyền các cấp cầngiải quyết hài hòa lợi ích giữa yêu cầu phát triển, mở rộng diện tích trồng caosu, cà phê và các loại cây công nghiệp khác, giữa yêu cầu phát triển các dự ánthủy điện, thủy lợi, giao thông, khu công nghiệp, đô thị... với việc quy hoạchbảo đảm đủ đất ở, đất sản xuất cho đồng bào theo tiêu chí xây dựng nông thônmới. Rà soát tình hình quản lý, sử dụng đất đai, rừng của các tổ chức, cá nhânđược nhà nước giao và cho thuê để điều chỉnh thu hồi lại số đất sử dụng khônghiệu quả, hoặc sử dụng sai mục đích, thậm chí bao chiếm quá nhiều đất, để tạoquỹ đất phục vụ cho nhu cầu đất đai hiện tại, cũng như tương lai của cộng đồngdân tộc thiểu số.

Đặc biệt, cần đẩy nhanh tiến độ giao đất, rừng chocộng đồng buôn làng đồng bào dân tộc thiểu số. Thực tế hiện nay cho thấy quỹđất canh tác nông nghiệp ở nhiều tỉnh Tây Nguyên đã cạn kiệt. Đồng bào dân tộcthiểu số Tây Nguyên vốn có nhiều kinh nghiệm quản lý bảo vệ rừng (nhiều mô hìnhgiao rừng cho cộng đồng quản lý ở xã Đắk R’tíh thuộc huyện Tuy Đức, buôn Pi Naothuộc huyện Đắk R’lấp... đã chứng minh rất hiệu quả). Giao đất, rừng cho cộngđồng buôn làng với cơ chế hưởng lợi hợp lý, thỏa đáng sẽ là giải pháp hữu hiệuđể giảm áp lực về đất sản xuất cho đồng bào, từng bước xã hội hóa nghề rừng,ngăn chặn hiệu quả tình trạng phá rừng hiện nay, góp phần bảo vệ môi trườngsinh thái, hóa giải những mâu thuẫn đã và đang phát sinh từ quá trình quản lýđất đai, rừng núi ở Tây Nguyên.

Hai là, xây dựng chính sách chuyên sâu nhằmtổ chức lại sản xuất cho các buôn làng vùng dân tộc thiểu số. Nhìn lại cácChương trình mục tiêu quốc gia, chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xãkhó khăn.... đều thấy rõ sự thiếu tập trung, nguồn lực ít nhưng phân tán trongnhiều chương trình và nhiều đầu mối quản lý. Vì vậy, cần rút ra những bài họckinh nghiệm về cách xây dựng, tổ chức, triển khai các Chương trình mục tiêutiêu quốc gia giai đoạn 2006 - 2010, để đề xuất chương trình mục tiêu quốc giagiai đoạn 2011 - 2015 cho sát hợp.

Cần có chính sách thiết thực, đồng bộ cho việc tổchức lại sản xuất, bằng những cơ chế đặc thù, để hộ sản xuất là đồng bào dântộc thiểu số được tiếp cận với nguồn vốn vay tín dụng phát triển sản xuất ở mứccao nhất. Tạo cầu nối giữa người dân với thị trường nhằm từng bước đưa sản xuấtnhỏ, manh mún của các hộ hòa nhập với thị trường hàng hóa nông sản. Hướng dẫnngười dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, áp dụng tiến bộ khoa học - kỹthuật thông qua hướng dẫn của đội ngũ cán bộ khuyến nông, khuyến lâm tại cácbuôn làng. Thiết lập mạng lưới cung tiêu để bảo đảm sản phẩm của đồng bào đượcbán ra thị trường đem lại thu nhập ổn định, tránh tình trạng tư thương ép giá,hoặc phải bán “lúa non” như hiện nay. Phát triển hệ thống dịch vụ tổ chức cungứng vật tư nông nghiệp, mở rộng hệ thống đại lý vật tư nông nghiệp ở vùng sâu,vùng xa với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế.

Ba là, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu laođộng theo hướng giảm lao động nông nghiệp, tăng việc làm phi nông nghiệp bằngcách phát triển các ngành nghề truyền thống gắn với khôi phục các giá trị vănhóa truyền thống vùng đồng bào dân tộc thiểu số phục vụ cho hoạt động du lịch,dịch vụ như dệt thổ cẩm, hàng thủ công mỹ nghệ, chế tác các nhạc cụ... Chútrọng đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động người dân tộc thiểu số,tạo điều kiện để họ tiếp cận nhiều hơn với thị trường lao động, cung ứng lao độngcho các dự án đang triển khai trên quê hương mình.

Bốn là, phát huy vai trò của các đơn vịkinh tế quốc phòng, các doanh nghiệp để tạo việc làm, nâng cao dân trí, chăm lođời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số. Đẩy mạnh tổ chứcliên kết kinh doanh trên cơ sở đất đai và lao động của đồng bào với vốn đầu tư,khoa học kỹ thuật, bao tiêu sản phẩm của các doanh nghiệp trên cơ sở hài hòalợi ích nhằm thúc đẩy sản xuất ở các buôn làng. Đối với những công trình, dự ánnhất thiết phải thu hồi đất của dân, nên thực hiện cổ phần hóa, chuyển giá trịđền bù đối với đất thành cổ phần để người dân có thu nhập ổn định, bảo đảm cuộcsống lâu dài.

 Năm là, tập trung giải quyết dứt điểm nhữngvướng mắc trong các dự án, hậu các dự án di dân tái định cư liên quan trực tiếpđến cuộc sống của hàng ngàn lượt hộ đồng bào các dân tộc thiểu số. Chúng takhông thể phủ nhận những lợi ích mà nhiều công trình, dự án thủy điện mang lại,nhưng cũng không thể xem thường những tác động tiêu cực của các dự án đến với ngườidân như chậm bố trí đất sản xuất, không hướng dẫn, đào tạo nghề, thiếu sinh kếổn định đời sống lâu dài cho nhân dân.

Để giảm nghèo bền vững cần xuất phát từ những chăm lobình dị, thiết thân như ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, chăm sóc sức khỏe... Từđó, những người dân nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số có cơ hội tiếp cận nhiềuhơn các dịch vụ cơ bản của xã hội, hưởng thụ những thành quả phát triển của đấtnước.

Bùi Thị Hòa

UVTV Tỉnh ủy, Phó Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hộitỉnh.

Theo baodaknong.org.vn
https://baodaknong.org.vn/chinh-tri/huong-dong-bao-dan-toc-thieu-so-o-tay-nguyen-den-giam-ngheo-ben-vung-7446.html
Copy Link
https://baodaknong.org.vn/chinh-tri/huong-dong-bao-dan-toc-thieu-so-o-tay-nguyen-den-giam-ngheo-ben-vung-7446.html

    Nổi bật

        Mới nhất
        Hướng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên đến giảm nghèo bền vững
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO