* Về quyền sở hữu:
- Quyền chiếm hữu: “quyền nắm giữ, quản lý tài sản” (Điều 182);
- Quyền sử dụng “quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản” (Điều 192);
- Quyền định đoạt: “quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó” (Điều 195).
Nội dung ba quyền nói trên có sự trùng lắp với nhau, cụ thể là:
Quyền quản lý tài sản trong “quyền chiếm hữu” có nội dung trùng lắp với quyền khai thác công dụng trong “quyền sử dụng” tài sản. Rõ ràng để khai thác công dụng thì phải quản lý tài sản và làm tốt công việc quản lý đòi hỏi phải khai thác công dụng tài sản.
- Nội dung quyền chiếm hữu, quyền sử dụng cũng mâu thuẫn hoặc gây nhầm lẫn với nội dung các điều luật khác trong bộ luật.
Điều 182 quy định quản lý là một quyền nhỏ trong quyền chiếm hữu nhưng Điều 185 lại quy định nếu được ủy quyền quản lý thì người được ủy quyền có quyền chiếm hữu tài sản.
Điều 192 quy định quyền sử dụng tài sản gồm hai quyền, quyền khai thác công dụng và quyền hưởng hoa lợi, lợi tức. Từ điển tiếng Việt định nghĩa “Sử dụng” chỉ đơn thuần là “Đem dùng vào mục đích nào đó”. Định nghĩa pháp lý quyền sử dụng không phù hợp, khác xa với nghĩa từ thường dùng có thể gây nhiều nhầm lẫn.
Cụ thể, Điều 273 về quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề, từ “quyền sử dụng” nếu hiểu theo nghĩa pháp lý thì người được quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề đương nhiên có cả quyền hưởng huê lợi trên phần bất động sản này.
Quy định quyền sở hữu như trên không tạo điều kiện pháp lý cho việc thực hiện các loại giao dịch dân sự khác nhau trong thực tiễn cũng như không tạo cơ sở cho sự phát triển và hội nhập quốc tế của nền học thuật pháp lý nước nhà.
Vì vậy, tôi đề xuất Dự thảo cần sửa đổi theo hướng sau:
Quyền sở hữu tài sản gồm các quyền sau:
- Quyền sử dụng: quyền sử dụng, quản lý, khai thác.
- Quyền hưởng dụng: quyền hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản.
- Quyền định đoạt: quyền bán, cho, tháo dỡ, từ bỏ tài sản.