![]() |
Bà Tôn Thị Ngọc Hạnh, Phó Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Đắk Nông phát biểu tại phiên thảo luận ngày 8/6/2015. |
Kính thưa chủ tọa kỳ họp!
Kính thưa Quốc hội!
Đến nay, Quốc hội khóa XIII đã trải qua 9 kỳ họp, đồng nghĩa với 9 lần được nghe Chính phủ báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội. Nhưng phải nói rằng, lần này, tôi nhận được nhiều ý kiến cử tri phản ánh cảm giác tương đối yên tâm, vững tin phần nào về tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta hiện nay.
Trong thời gian cho phép, tôi xin thảo luận một số nội dung như sau:
Trước hết, mặc dù, trong báo cáo của Chính phủ đã trình bày trước quốc hội, cử tri rất tâm đắc khi Chính phủ xác định sẽ “Tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi phát triển các khu vực khó khăn”; trong đó, có khu vực Tây Nguyên. Tuy nhiên, tại báo cáo chi tiết “Báo cáo Đánh giá bổ sung kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014 và triển khai Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2015” của Chính phủ gửi cho đại biểu quốc hội, chỉ có một số ý rải rác, dung lượng thể hiện sự quan tâm đến các khu vực, địa bàn, vùng khó khăn, còn quá ít. Và vẫn như những lần báo cáo trước, Báo cáo về kinh tế - xã hội của Chính phủ: Nói chung, chỉ mới tập trung phân tích nhiều về ngành, ít chú trọng phân tích về vùng.
Trong khi đó, sự quan tâm của cử tri, ngoài những nội dung về ngành, có tính chất chuyên sâu, có tính toàn quốc… thì cử tri còn rất quan tâm đến những nội dung về kinh tế - xã hội tại khu vực sinh sống, ít nhất là trong địa bàn cấp vùng. Ví dụ như những nội dung đánh giá khái quát, so sánh các kỳ báo cáo về kinh tế - xã hội khu vực Tây nam bộ, Tây bắc hoặc Tây Nguyên… v.v. Do đó nếu có thể, trong kỳ báo cáo lần sau mong Chính phủ quan tâm hơn, để đáp ứng đầy đủ nguyện vọng của cử tri.
Hai là, việc hoàn thành công tác chỉnh trang quốc lộ 14 là một trong những dấu ấn trong nhiệm kỳ công tác của Chính phủ.
Tuy nhiên, sắp tới đây, khi nhà máy điện phân nhôm, sản phẩm quặng bô xít tại Đắk Nông đi vào hoạt động, khối lượng vận chuyển sẽ rất nhiều, phải sử dụng các phương tiện vận chuyển có tải trọng lớn và cồng kềnh. Do đó, tuy đã có dự án nâng cấp đường bộ các tỉnh lộ và đã hoàn thành quốc lộ 14 từ Đắk Nông nhưng việc vận chuyển hàng hóa, nông lâm sản và sản phẩm từ mỏ quặng bô xít là chưa đáp ứng được. Vì trên thực tế, mặt đường của các tỉnh lộ và quốc lộ 14 rất hẹp, chỉ lưu thông được hai làn xe, trong khi đó, chất lượng các tỉnh lộ thì lại không cao, dễ xuống cấp khi chịu đựng tải trọng lớn.
Thiết nghĩ rằng, sau quốc lộ 14, Chính phủ cần tiếp tục triển khai và đẩy mạnh thực hiện dự án đường sắt từ Tây Nguyên đến cảng Kê Gà mà nhiều năm trước đây đã quy hoạch. Thực hiện được như vậy, sẽ cho phép tăng năng lực vận chuyển, phục vụ tốt nhu cầu vận chuyển hàng hóa, nông lâm sản, khoáng sản bô xít và sản phẩm nhôm ở khu vực Tây Nguyên xuống cảng biển cũng như vận chuyển nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng từ đồng bằng lên Tây Nguyên, tránh thế độc đạo như hiện nay.
Ba là, phần nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cần tập trung chỉ đạo thực hiện trong thời gian đến của Báo cáo về kinh tế - xã hội của Chính phủ có nêu “Đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng xây dựng nền nông nghiệp hàng hóa lớn, tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh”. Đến bây giờ, tôi cho rằng cần phải cụ thể hóa nội dung này bằng những dự án, đề án phát triển cụ thể. Không thể chung chung được nữa, vì nội dung chiến lược về nông nghiệp như trên, chúng ta đã nhắc đi nhắc lại khá nhiều lần rồi.
Tây Nguyên là vùng đất màu mỡ, tiềm năng phát triển rất lớn, khí hậu thổ nhưỡng phù hợp cho nhiều loại cây công nghiệp dài ngày. Nhưng cho đến nay, tính tự phát gần như chiếm ưu thế trong quá trình phát triển của ngành nông nghiệp, hệ lụy sau phát triển tự phát do người nông dân hứng chịu. Như hiện nay, tình trạng chặt phá cây cao su, tự phát chuyển đổi cây trồng do giá cả xuống thấp, thiếu sự hướng dẫn, không có sự hỗ trợ của nhà nước là một ví dụ điển hình.
Nói là cần một cuộc cách mạng đối với ngành nông nghiệp thì hơi quá, nhưng rõ ràng, cần phải có sự thay đổi sâu sắc, toàn diện, trên tất cả các mặt, như ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đẩy mạnh quan hệ sản xuất tiên tiến, kết nối chặt chẽ chuỗi giá trị, tăng cường tính cạnh tranh…v.v, đối với ngành nông nghiệp hiện nay.
Bốn là, một vấn đề đã cũ nhưng luôn mang tính thời sự đối với địa bàn Tây Nguyên: Đó là vấn đề di cư tự do.
Trước hết, cần phải xác định rằng: Đất lành chim đậu, Tây Nguyên nói chung, Đắk Nông nói riêng là mảnh đất nhiều tiềm năng, trước hết là cho phát triển nông nghiệp; và mọi công dân đều có quyền tự do cư trú như hiến pháp đã quy định.
Tuy nhiên, hiện nay, tình trạng di cư tự do trở nên báo động, bởi số lượng rất lớn và gây ra nhiều hậu quả cần phải giải quyết cấp bách, trở thành gánh nặng cho địa phương có dân di cư tự do đến. Có thể liệt kê cụ thể như sau:
1. Tình trạng chặt phá rừng tự nhiên tràn lan, gây ra cháy rừng, tác động mạnh đến biến đổi khí hậu….
2. Gánh nặng ngày càng tăng về an sinh xã hội, về giáo dục, y tế, xóa đói giảm nghèo…
3. Trật tự an toàn xã hội bị phá vỡ, xáo trộn, rất khó khăn trong công tác quản lý…
Toàn tỉnh Đắk Nông, số liệu về di cư tự do, từ năm 2005 đến nay, là gần 5 ngàn hộ với gần 23 ngàn nhân khẩu. Lo cho từng đó hộ, từng đó nhân khẩu ổn định cuộc sống, định canh, định cư quả là một gánh nặng, rất nặng.
Chính phủ đã có một số chương trình hỗ trợ, như chương trình 135, chương trình 755, các dự án định canh, định cư… (v.v) nhưng kinh phí bố trí so với nhu cầu thực tế thì rất thấp, thực tế chuyển cho địa phương so với kinh phí bố trí đó lại quá ít, chuyển kinh phí cho địa phương rất chậm.
Tại buổi thảo luận hôm nay, xin đề đạt nguyện vọng lên Chính phủ, thời gian đến, cần quan tâm hơn nữa, giải quyết thật căn cơ vấn nạn này. Cần xử lý sớm những tồn đọng hiện có ở các địa phương và làm sao đó, để di dân tự do trở thành di dân có tổ chức, thuận lòng dân, nhưng cũng không gây khó cho địa phương tiếp nhận.
Tôi xin hết ý kiến thảo luận.
Xin cảm ơn Quốc hội đã chú ý lắng nghe.