Chiến thắng Đức Lập – Tổng hợp của nhiều yếu tố
Chiến thắng Đức Lập là chiến thắng của tổng hợp nhiều yếu tố. Trong đó, sự lãnh đạo, chỉ đạo tài tình của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, “thế trận lòng dân” vững chắc là yếu tố then chốt, quyết định.
Sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng
Quận lỵ Đức Lập có vị trí chiến lược quan trọng cả về quân sự, kinh tế, chính trị và được xem là “cánh cửa thép” khống chế Nam Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và vùng biên giới Campuchia.
Xác định vị trí, vai trò của căn cứ Đức Lập, ngày 10/9/1974, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lê Duẩn đã có ý kiến chỉ đạo Cục Tác chiến, Bộ Tổng tham mưu: “Năm 1975, căng địch ra trên cả chiến trường, đánh tập trung lớn trên từng khu vực. Mở Tây Nguyên là chính”.

Thực hiện chỉ đạo của đồng chí Lê Duẩn, bản dự thảo kế hoạch chiến lược do Bộ Tổng tham mưu xây dựng đã chỉ ra mục tiêu chiến lược của bước 1 là mở thông đường hành lang chiến lược từ Nam Tây Nguyên xuống miền Đông Nam Bộ và ba tỉnh phía Nam Khu 5.
Sau thắng lợi tại Phước Long, đầu năm 1975, Bộ Chính trị và Thường vụ Quân ủy Trung ương đã quyết định chọn hướng tấn công chính là Nam Tây Nguyên.
Đánh chiếm và giải phóng Đức Lập được lựa chọn, với mục tiêu tạo thế bao vây Buôn Ma Thuột, đồng thời tạo hành lang để nối đường Hồ Chí Minh với đường 14 đến Đông Nam Bộ.
.jpg)
Thực tiễn diễn biến ở chiến trường đã chứng minh, Đảng ta chọn Tây Nguyên (trọng tâm là Nam Tây Nguyên) làm hướng tấn công chính và đánh chiếm Buôn Ma Thuột là trận chiến then chốt mở màn là quyết định sáng suốt và chính xác.
Chiến thắng tại Đức Lập và chiến dịch Tây Nguyên, không những ta tiêu diệt được một tập đoàn phòng ngự mạnh của địch mà còn tạo điều kiện đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đi đến thắng lợi cuối cùng.
Nghệ thuật quân sự tài tình
Tham luận tại Hội thảo khoa học “Chiến thắng Đức Lập - Nửa thế kỷ nhìn lại” diễn ra tại huyện Đắk Mil ngày 3/3, PGS.TS Nguyễn Văn Sự, Khoa Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng cho biết, trước đây, ta đã nhiều lần tấn công địch ở Đức Lập, nhưng chưa có lần nào ta đánh dứt điểm được. Sau mỗi lần bị đánh, địch càng củng cố vững chắc thêm.
Cuối tháng 2/1975, Đại tướng Văn Tiến Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam đã trực tiếp vào chiến trường, chỉ huy tại chỗ phương án tấn công Đức Lập.
Để giữ bí mật công tác chuẩn bị chiến dịch và cơ động lực lượng, từ tháng 11/1974 đến cuối tháng 2/1975, một kế hoạch nghi binh tuyệt mật mang mật danh “Kế hoạch tác chiến B” được Bộ Tư lệnh mặt trận (sau này là Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên) triển khai thống nhất chặt chẽ, liên tục với nhiều lực lượng tham gia.

Những hoạt động nghi binh chiến dịch của ta diễn ra hiệu quả, thành công, tạo điều kiện thuận lợi để ta thực hiện phương án tác chiến theo kế hoạch.
Đầu tháng 3/1975, Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên quyết định các lực lượng đánh cắt giao thông, nổ súng chia cắt chiến dịch, tạo thế mở màn Chiến dịch Tây Nguyên.
Đêm ngày 3, rạng sáng 4/3/1975, địch ở Tây Nguyên bị cô lập hoàn toàn với đồng bằng duyên hải phía Đông; hai cụm Bắc và Nam Tây Nguyên cũng bị cắt rời. Đây là điều kiện thuận lợi để quân và dân tạo nên chiến thắng mở màn khi tấn công vào căn cứ Đức Lập vào ngày 9/3.
.jpg)
Theo Thượng tá, Tiến sĩ Lê Huy Tuynh, Trưởng Phòng Khoa học Quân sự, Bộ Quốc phòng, thắng lợi tại Đức Lập để lại nhiều bài học quý giá, khẳng định sự phát triển toàn diện của các lực lượng tham gia.
Đặc biệt chiến tháng này là sự phát triển, trưởng thành trong việc tổ chức biên chế, vũ khí trang bị, nghệ thuật chỉ đạo tác chiến, trong đó có nghệ thuật lựa chọn mục tiêu, lực lượng đánh địch, nghệ thuật trói địch, cắt địch tạo thế, lực…
Sức mạnh đoàn kết quân dân
Chiến thắng Đức Lập là chiến công của quân và dân cả nước nói chung và quân, dân Đắk Nông nói riêng. Trong đó, bên cạnh sự lãnh đạo của Đảng bộ thì quân và dân Đắk Nông cũng đã đóng góp trực tiếp, to lớn vào chiến thắng quan trọng này.
Trong trận đánh Đức Lập, Đảng bộ, quân và dân các dân tộc tỉnh Đắk Nông đã có một quá trình chuẩn bị lâu dài, phối hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực. Lực lượng vũ trang Đắk Nông đã nắm chắc thời cơ, phối hợp kịp thời với quân chủ lực, phát động cao trào tiến công và nổi dậy, tiêu diệt, làm tan rã toàn bộ lực lượng quân sự, chính trị của địch, đập tan bộ máy kìm kẹp, giải phóng nông thôn.

Ngoài ra, quần chúng Nhân dân còn phối hợp chặt chẽ và dẫn đường cho cán bộ địa phương, đặc công, biệt động, quân chủ lực đánh chiếm các mục tiêu, giành được chính quyền cơ sở, phá đồn bốt, chiếm kho xưởng, công sở, giữ gìn máy móc không để cho quân địch phá hoại trong lúc rút chạy…
Đại tá, Thạc sĩ Trần Văn Thưởng, Khoa Lịch sử nghệ thuật quân sự, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng cho rằng, chiến thắng Đức Lập là chiến thắng oanh liệt của quân và dân Đắk Nông, khẳng định vai trò quan trọng trong phối hợp tác chiến chặt chẽ giữa quân và dân Đắk Nông với bộ đội chủ lực.

Đại tá Trần Văn Thưởng chỉ rõ, trước khi tiến công vào quận lỵ Đức Lập, quân và dân trên địa bàn Đức Lập đã phối hợp, hỗ trợ, giúp đỡ bộ đội chủ lực làm tốt công tác chuẩn bị trận đánh, cơ động triển khai chiến đấu, bí mật, bất ngờ; bằng các hoạt động đánh nhỏ căng kéo, phân tán địch trên địa bàn, khu vực tác chiến, tạo thế có lợi cho bộ đội chủ lực tiến công vào mục tiêu chủ yếu then chốt, quan trọng.
Trong chiến đấu, quần chúng Nhân dân đã hiệp đồng, phối hợp chặt chẽ với lực lượng chủ lực Sư đoàn 10 tham gia tiến công, phục vụ tác chiến.
Sau thắng lợi tại Đức Lập, các đội công tác đã phát động Nhân dân trên địa bàn nổi dậy, nắm bắt thời cơ lật đổ chính quyền quân ngụy và giải phóng hoàn toàn Đức Lập.
.jpg)
“Chiến thắng Đức Lập là kết quả hội tụ bởi nhiều yếu tố, trong đó phải kể đến vai trò lãnh đạo nhạy bén của Tỉnh ủy Đắk Nông, sự chỉ đạo linh hoạt, sáng tạo với nền nghệ thuật quân sự độc đáo, đặc biệt là sự đoàn kết chiến đấu hi sinh của quân và dân Tây Nguyên, đặc biệt là quân và dân Đắk Nông”, Đại tá, Thạc sĩ Trần Văn Thưởng đưa ra quan điểm.
Có thể nói, sau 50 năm chiến thắng Đức Lập, những giá trị, bài học lịch sử vẫn còn nguyên vẹn. Chiến thắng ngày 9/3/1975 là sự kết tinh, hội tụ của nhiều yếu tố, tạo thành sức mạnh tổng hợp của quân và dân ta.
Tinh thần dám đánh, biết đánh và quyết chiến, quyết thắng của quân và dân đã trở thành nhân tố quan trọng, tạo nên sức mạnh to lớn, nhân tố chính trị quyết định thắng lợi giòn giã của chiến dịch Tây Nguyên.