Các bộ trưởng trả lời chất vấn trước Quốc hội

Nguồn Dangcongsan.vn| 20/11/2013 09:01

Chiều 19/11, các Bộ trưởng: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Khoa học và Công nghệ, Xây dựng đã trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội.

4 nhóm giải pháptái cơ cấu nông nghiệp và quản lý vật tư nông nghiệp

Tiếp tục kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII, chiều ngày 19/11, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát đã trả lời chất vấn trước Quốc hội về các nội dung liên quan đến tái cơ cấu nông nghiệp và quản lý vật tư nông nghiệp.

Mở đầu phiên chất vấn, trả lời đại biểu Trần Văn Minh (Quảng Ninh) về tình hình quản lý vật tư nông nghiệp gây yếu kém, tình trạng phân bón giả, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong thực phẩm tràn lan trên thị trường…Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát cho rằng, để thực hiện trách nhiệm của mình, Bộ xác định quản lý, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm là nhiệm vụ số một của toàn ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn. Với tư tưởng như vậy, Bộ trưởng đã ủy quyền cho đồng chí Thứ trưởng hàng tháng họp giao ban chuyên đề về quản lý chất lượng và an toàn thực phẩm, kiểm điểm đôn đốc thực hiện vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm…đã tạo sự chuyển biến nhưng chưa được như mong đợi của nhân dân. Vì thế, Bộ rất quyết tâm và cố gắng triển khai thực hiện.

Để tình hình chuyển biến mạnh mẽ hơn trong thời gian tới, Bộ trưởng nhấn mạnh: Chúng tôi dự kiến tập trung vào 4 nhóm giải pháp. Thứ nhất là tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý trên cơ sở các luật pháp đã ban hành. Chúng tôi rất phấn khởi bởi vừa qua Quốc hội đã xem xét và tới đây có thể sẽ thông qua Luật kiểm định và bảo vệ thực vật. Chúng tôi đã và đang tiếp tục xây dụng Luật tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật. Sau khi có Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, chúng tôi rà soát và thấy rằng toàn ngành phải điều chỉnh 1250 tiêu chuẩn trong đó 905 tiêu chuẩn phải chuyển đổi sang tiêu chuẩn Việt Nam và 29 quy chuẩn phải chuyển sang tiêu chuẩn… Thứ hai là chúng tôi chấn chỉnh bộ máy quản lý về chất lượng vật tư, thanh kiểm tra trên toàn quốc trên cơ sở luật pháp hiện hành, nhất là thời gian qua có Luật Thanh tra, Luật Giải quyết khiếu nại, tố cáo. Hiện nay ở một số địa phương, Luật thanh tra yếu như tỉnh Bắc Cạn chỉ có 1 người làm thanh tra, tỉnh Bắc Giang có 2 người. Theo Luật hiện nay chỉ có công chức mới được làm thanh tra trong khi hệ thống làm trong lĩnh vực thuốc bảo vệ thực vật, thú y phần lớn là viên chức nên chúng tôi cũng đang khắc phục khó khăn, tập huấn cán bộ để triển khai công việc. Thứ ba, thay vì những đợt đi kiểm tra, Bộ đã ban hành thông tư và chỉ đạo kiểm tra siết chặt tại biên giới và trong nước thì tiến hành thống kê các cơ sở sản xuất kinh doanh để phân loại các cơ sở trọng tâm, trọng điểm và xử lý những vi phạm… Thứ tư là tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến để nhân dân phát giác, tố cáo người làm ăn bất chính.

Trả lời câu hỏi của đại biểu Nguyễn Văn Tuyết, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu về nguyên nhân những yếu kém của ngành dược, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nêu ra tại phiên họp sáng ngày 19/11, Bộ trưởng cho rằng, đây là lĩnh vực lớn từ nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản…Chúng tôi thấy có cả những nguyên nhân khách quan và nhiều nguyên nhân chủ quan. Tuy nhiên, nguyên nhân chủ quan vẫn là chính. "Về nguyên chủ quan, ở đây chúng tôi thấy có phần do hệ thống về cơ chế chính sách được ban hành nhiều nhưng còn nhiều văn bản điều chỉnh ban hành chưa kịp thời. Đặc biệt, việc thực hiện cơ chế chính sách tại địa phương chưa được chặt chẽ. Bởi vậy, công tác chỉ đạo điều hành của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và hệ thống cơ quan quản lý nhà nước các cấp, phải có sự phối với Bộ ngành có liên quan. “Chúng tôi thấy cái chính là cần phải tạo ra môi trường khuyến khích nhân dân và xã hội tham gia quản lý và phát triển. Chúng ta chỉ thành công khi chúng ta khuyến khích và tạo được động lực cho nhân dân tham gia. Nếu chỉ dựa vào nguồn lực của Nhà nước thì khó có thể thành công”, Bộ trưởng nhấn mạnh.

Trả lời câu hỏi về chính sách tạm trữ chưa đem lại lợi ích để phát triển bền vững ngành lúa gạo Việt Nam, Bộ trưởng cho biết: Chính sách tạm trữ như chúng tôi đã báo cáo là một giải pháp tình thế, chỉ khi nào giá lúa gạo xuống thấp, nông dân không được lãi thì Chính phủ mới sử dụng giải pháp để ngăn chặn giảm giá …Việc thực hiện giải pháp đó chúng ta đã thực hiện và tương đối thành công, ngăn chặn đựoc giảm giá, làm tăng giá …Tuy nhiên, chúng tôi nhất trí với các đại biểu rằng chúng ta cần phải suy nghĩ để triển khai những giải pháp đồng bộ để xây dựng ngành lúa gạo Việt Nam hiện nay, phải rà soát quy hoạch về khu vực trồng lúa. Chúng ta có lợi thế về cây lúa nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta nên trồng lúa mọi lúc, mọi nơi trên đất nước mà phải tập trung vào vùng đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng và những vùng mà thực sự đất tốt, có những điều kiện tự nhiên tốt cho cây lúa. Còn những vùng trung du miền núi, vùng đất cát thì nên chuyển sang cây khác… Với tư tưởng đó, chúng tôi đã ban hành Thông tư số 47 để hướng dẫn cụ thể nhân dân chuyển đổi cây trồng”, Bộ trưởng cho biết.

Bên cạnh đó, Bộ trưởng cũng cho rằng, chúng ta cần tiếp tục hỗ trợ nhân dân ứng dụng khoa học kỹ thuật, trong đó cái chính là vấn đề giống. Những năm vừa qua Bộ đã dốc lực cùng các địa phương nghiên cứu, tạo giống. “Hiện Bộ đã đặt hàng với các Viện nghiên cứu điều chỉnh lại các đề tài nghiên cứu để soạn thảo ra một số giống nhưng phải đặt những tiêu chí: Thứ nhất là phải có giá trị thương phẩm phải trên 500 USD/tấn thay vì có giá trị trên 400 USD /tấn như hiện nay và phải có độ bền vững chứ không phải trồng 3 năm đã xuống cấp. Bên cạnh đó phải trồng trên 10 năm trở lên chúng tôi mới xét công nhận. Hiện nay chúng tôi đang điều chỉnh vấn đề này. Thứ hai, chúng ta phải tiếp tục hỗ trợ nhân dân để ứng dụng cơ giới hóa, ứng dụng công nghệ mới trong bảo quản chế biến. Chúng ta phải tiếp tục thúc đẩy việc các hệ thống để kinh doanh lúa gạo một cách bền vững và có khả năng cạnh tranh trên cơ sở xây dựng được các thương hiệu như các đại biểu đã nêu. Thứ ba là phải tổ chức lại sản xuất. Hiện nay, sản xuất nông hộ nhỏ lẻ chúng ta đã đạt đỉnh cao của sự phát triển. Đã đến lúc phải có sự liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp, liên kết giữa nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp. Mô hình cánh đồng lúa lớn của An Giang đã cho thấy đấy là một hướng đi có triển vọng”, Bộ trưởng cho hay.

Trả lời đại biểu Tôn Thị Ngọc Hạnh, tỉnh Đắk Nông về tổ chức liên kết có liên quan đến giảm giá cà phê, Bộ trưởng cũng cho biết: Chúng tôi nhận thấy mô hình cánh đồng lớn không chỉ áp dụng trong sản xuất lúa gạo mà chúng tôi đang suy nghĩ và cùng với các cơ quan quản lý nông nghiệp tại các địa phương thí điểm và nhân ra diện rộng đối với các loại sản phẩm khác. Chúng tôi rất phấn khởi, vừa qua Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định về chính sách hỗ trợ liên kết về cánh đồng lớn. Thời gian tới, chúng tôi sẽ triển khai Quyết định này.

Theo Bộ trưởng, đối với giá cà phê giảm, Bộ rất chia sẻ với bà con vùng cà phê. Bộ đã bàn với các Bộ đã họp trực tuyến với địa phương tại Tây Nguyên và trong ngày ngày hôm nay (19/11), Bộ đã ký văn bản trình lên Thủ tướng Chính phủ chính sách để hỗ trợ về mặt thị trường để ngăn chặn việc suy giảm giá, đặc biệt là hỗ trợ cho bà con có khả năng để lưu trữ cà phê bán vào thời điểm thích hợp.

Đại biểu Đặng Thị Kim Chi tỉnh Phú Yên có hỏi về vấn đề nhập khẩu của ngành mía đường thời gian qua, Bộ trưởng cho biết: Liên vụ mía đường năm 2013-2014, nước ta có 6013 ha mía và sản xuất được 1,6 triệu tấn đường cùng với tồn kho đến trước ngày 1/10 là 220 nghìn tấn, chúng ta sẽ phải nhập khẩu theo cam kết WTO 53 nghìn tấn nữa . Như vậy, tổng lượng của liên vụ này sẽ là 1.870 nghìn tấn. “Chúng tôi ước nhu cầu trong nước là khoảng 1.320 nghìn tấn và như vậy chúng ta sẽ dư khoảng 350 nghìn tấn. Vì thế nên nhập khẩu chỉ trong trường hợp bắt buộc theo cam kết quốc tế. Còn mọi việc nhập khẩu khác nếu làm ảnh hưởng đến việc nhập khẩu mía đường trong tương lai thì không nên. Mặt khác chúng tôi đang triển khai nhiều biện pháp hỗ trợ ngành mía đường, nâng cao hiệu quả sản xuất mía đường trên toàn quốc. Chúng tôi nhận thấy vấn đề chính của ngành mía đường hiện nay là năng xuất còn thấp, thiêu cạnh tranh. Vì thế trong 3 năm gần đây chúng tôi đã chỉ đạo liên tục để thực hiện các giải pháp kỹ thuật nâng cao năng xuất mía và năng xuất mía cũng tăng lên rõ rệt”, Bộ trưởng cho biết.

Khoa học công nghệ và nông nghiệp là hai mặt không thể tách rời

Cũng trong chiều 19/11, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Quân đã báo cáo giải trình về những vấn đề liên quan đến hoạt động của Bộ Khoa học và Công nghệ, trong đó, Bộ trưởng nhấn mạnh, khoa học công nghệ và nông nghiệp là hai mặt không thể tách rời.

Báo cáo với Quốc hội, Bộ trưởng khẳng định, khoa học công nghệ là nền tảng, là quốc sách hàng đầu và trong nông nghiệp thì khoa học công nghệ cũng phải đóng vai trò như vậy. Vì vậy, khi sơ kết 5 năm Nghị quyết 26 của Ban Chấp hành Trung ương về chính sách tam nông do Bộ cùng với Ủy ban Khoa học Công nghệ và Môi trường , Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tổ chức, đã đánh giá trong 5 năm qua khoa học công nghệ đã có đóng góp nhất định cho sự phát triển của nông nghiệp.

Bộ trưởng cho biết, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt 3 chương trình quốc gia lớn về khoa học công nghệ, trong đó có 2 chương trình liên quan đến nông nghiệp, là chương trình phát triển sản phẩm quốc gia và chương trình đổi mới công nghệ quốc gia. Trong 9 sản phẩm quốc gia được lựa chọn có 6 sản phẩm chính thức và 3 sản phẩm dự bị, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định nông nghiệp có 3 sản phẩm trong đó lúa gạo là một trong 6 sản phẩm chính thức. Ngoài ra, sản phẩm nấm ăn, nấm dược liệu và sản phẩm cá da trơn là sản phẩm dự bị. Hiện nay, Bộ Khoa học và Công nghệ cũng đang phối hợp với các bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương triển khai chương trình sản phẩm quốc gia cũng như chương trình đổi mới công nghệ quốc gia.

Báo cáo trước Quốc hội, Bộ trưởng khẳng định, trong nhiều năm qua, Bộ Khoa học và Công nghệ rất quan tâm đến nông nghiệp và phát triển nông thôn. Trong số 10 chương trình trọng điểm cấp nhà nước về khoa học công nghệ thì có 2 chương trình phục vụ trực tiếp cho nông nghiệp, trong đó có chương trình KC 02 về công nghệ sinh học phục vụ cho nông nghiệp và y tế; chương trình KC 07 về bảo quản và chế biến sau thu hoạch cũng chủ yếu phục vụ cho nghành nông nghiệp. Rất nhiều thành tựu trong hai chương trình này đã được ứng dụng vào thực tế và đem lại hiệu quả cao.

Ngoài ra, một chương trình khác đã bước sang năm thứ 13 cũng rất thành công, đó là chương trình đưa tiến bộ khoa học công nghệ vào nông thôn miền núi. Hàng năm Bộ Khoa học và Công nghệ giúp cho các tỉnh miền núi có các dự án để ứng dụng các tiến bộ về khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp chủ yếu là cho các vùng khó khăn. Các dự án này có hai loại, một loại là do Trung ương quản lý và một loại là ủy quyền cho các địa phương quản lý. Các dự án này đã nâng cao đời sống của người dân và đóng góp cho tình hình phát triển kinh tế xã hội của các địa phương, được các địa phương đánh giá rất cao. Chương trình kéo dài 5 năm, được bố trí 700 tỷ đồng tức là mỗi năm khoảng hơn 100 tỷ đồng nhưng các địa phương cũng đã có vốn bổ sung và các doanh nghiệp và nông dân đã có đóng góp công sức và tiền vốn của mình cho nên đến thời điểm này, các dự án phát triển rất tốt.

Cũng tại phiên giải trình, Bộ trưởng cũng cho biết, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt 3 chương trình lớn cho 3 khu vực là Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và Tây Bắc với 3 chương trình phát triển kinh tế xã hội thì trong đó, khoa học công nghệ là nòng cốt. Ba chương trình này được Bộ Khoa học va Công nghệ giao cho 3 trung tâm khoa học lớn nhất của nước ta trực tiếp quản lý và thực hiện, đó là Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, hai Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam và Đại học Quốc gia Hà Nội. Bốn cơ quan này sẽ chủ trì cả ba chương trình khoa học công nghệ cho ba vùng, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và Tây Bắc. Trong đó, Bộ sẽ thúc đẩy việc là đưa một số tiến bộ khoa học công nghệ vào chuỗi giá trị từ khâu làm giống cho tới khâu canh tác, bảo quản chế biến và xuất khẩu.

Đề cập đến vấn đề vị trí của khoa học công nghệ Việt Nam trong tương lai, Bộ trưởng Nguyễn Quân cho rằng, trong Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 6 là đến năm 2020, khi Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp thì khoa học công nghệ cũng sẽ nằm trong tốp các nước dẫn đầu của khu vực ASEAN. Tuy nhiên, chúng ta còn rất nhiều khó khăn phải vượt qua. Mặc dù vậy, Bộ trưởng cho rằng điều này hoàn toàn khả thi vì hiện nay khoa học công nghệ đang nhận được sự quan tâm lớn của Đảng, Nhà nước, Quốc hội với hướng đầu tư và thực hiện chiến lược phát triển khoa học công nghệ.

Hiệu quả xây dựng nhà tránh lũlà thành công

Tại phiên chất vấn của Quốc hội chiều 19/11, giải trình về hiệu quả của việc xây dựng nhà tránh lũ, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trịnh Đình Dũng khẳng định việc thực hiện vùng ứng phó với lũ ở đồng bằng sông Cửu Long đến nay đã rất thành công.

Bộ trưởng cho biết, nhà tránh lũ tập trung ở hai khu vực là đồng bằng sông Cửu Long và miền Trung. Tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long, Bộ trưởng cho hay, đây là khu vực thường xuyên có lũ, nếu lũ lớn mà ngập diện rộng thì cũng gây tác hại rất lớn, đặc biệt như cơn lũ lịch sử năm 2000 đã làm chết khoảng 500 người và làm hàng nghìn ngôi nhà bị phá. Thấy rõ được tác hại của lũ, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định phê duyệt chương trình xây dựng vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, xây dựng các bờ bao với khu dân cư các xã cũng như tôn nền vượt lũ và đến nay đã làm, đã hoàn thành. Với 804 cụm tuyến dân cư và bờ bao, khu dân cư có sẵn và đã bố trí được 140.000 hộ thuộc khu vực ngập lũ về ở và đạt 92 % so với kế hoạch, số vốn giai đoạn 1 đã đạt 5.842 tỷ đồng.

Theo Bộ trưởng, điều này cho thấy Chính phủ đã đặc biệt quan tâm và đã dành một nguồn kinh phí đáng kể để khắc phục được tình trạng thiệt hại do lũ của đồng bằng sông Cửu Long. “Do vậy, những cơn lũ gần đây thiệt hại đã giảm thiểu tối đa và chúng ta rất rõ là đồng bào cũng rất yên tâm để có cuộc sống ổn định hơn” – Bộ trưởng nói.

Giai đoạn 2, chương trình được triển khai ở 7 tỉnh thành phố là Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Tiền Giang, Hậu Giang và Cần Thơ. Đến nay các địa phương đã hoàn thành đầu tư xây dựng được 150/176 cụm tuyến dân cư bờ bao, khu dân cư có sẵn và đạt 85% và đã bố trí được 22.423 hộ/57.252 hộ và đạt 39%. Giai đoạn 2 này đang tập trung để tiếp tục và sẽ cân đối nguồn ngân sách hỗ trợ cũng như hỗ trợ cho bà con được vay cũng như khoanh nợ v.v... Hiện, Bộ Xây dựng đang tập trung cùng với các Bộ báo cáo Chính phủ để tiếp tục thực hiện giai đoạn 2 có hiệu quả.

Bộ trưởng khẳng định việc thực hiện vùng ứng phó với lũ ở đồng bằng sông Cửu Long bằng cách là xây dựng bờ bao, tôn nền vượt lũ đến nay đã rất thành công.

Đối với khu vực bão lũ miền Trung, Bộ trưởng cho biết, trong những năm qua vùng miền Trung liên tục phải hứng chịu với cơn bão rất lớn. Đi cùng với nó là mưa lũ do địa hình ở đây rất là phức tạp, độ dốc cao, nên nước dồn về rất là nhanh gây thiệt hại rất lớn cho đồng bào khu vực này. Trước tình hình đó Chính phủ đã yêu cầu Bộ xây dựng cùng các bộ, ngành phải tham mưu, đề xuất những giải pháp để ứng phó với bão lũ ở miền Trung để đảm bảo an toàn tính mạng cho người dân cũng như bảo đảm tài sản cho người dân ở vùng này.

Theo đó, Bộ Xây cùng các địa phương của 14 tỉnh từ Thanh Hóa đến Bình Thuận tập trung nghiên cứu, khoanh vùng trên cơ sở địa hình đó để xác định những khu vực cần phải có các giải pháp cụ thể với từng vùng và cuối cùng ra điều kiện bắt đầu làm cho nên phải từng bước, trước mắt đã xác định được vùng mà người dân bị ngập khoảng từ 1,5m trở lên và chưa có nhà kiên cố thì sẽ được hỗ trợ nhưng đối với hộ nghèo. Hiện nay, Bộ Xây dựng đã lập đề án và Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt bằng Quyết định 716 ngày 14/6/2012, làm thí điểm 700 ngôi nhà chống lũ mà mỗi ngôi nhà có hai sàn, một sàn tầng một và tầng hai đều sàn cứng và khung bê tông khoảng từ 10 - 15m2. Tuy nhiên, Bộ trưởng cho hay, thực tế kiểm tra thì thấy nhiều gia đình đã được sự hỗ trợ của cộng đồng dân cư cũng như của họ hàng đã có thể làm diện tích còn rộng hơn rất nhiều, có gia đình có thể làm rộng đến 40m2. Trong đợt mưa lũ vừa qua đã cho thấy những nhà thí điểm này rất an toàn.

Bộ trưởng cũng thông tin thêm, Bộ Xây dựng đang cùng Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tập trung nguồn vốn đầu tư cho 40.000 hộ với sự hỗ trợ từ ngân sách 10 triệu đồng và vay của Ngân hàng chính sách là 15 triệu đồng, còn lại do người dân bỏ ra, cộng đồng hỗ trợ. Các địa phương cũng đề nghị mở rộng sang hộ cận nghèo, khoảng 30.000 hộ. Thủ tướng đã chỉ đạo Bộ Xây dựng tiếp tục nghiên cứu để có giải pháp cụ thể và cân đối ngân sách để làm tiếp.

Trước tình hình bão lũ, trước tình hình biến đổi khí hậu xảy ra ngày càng phức tạp, đặc biệt cơ bão Haiyan vừa rồi, Bộ Xây dựng đã chủ động yêu cầu chuẩn bị đoàn công tác sang Philippines để nghiên cứu cơn bão vừa rồi ảnh hưởng đến những loại công trình như thế nào để từ đó có những giải pháp cụ thể ứng phó với cơn bão có thể xảy ra. Bộ cũng đang nghiên cứu những qui hoạch đô thị vùng ven biển, đặc biệt là theo bản đồ ngập lũ, ứng phó biến đổi khí hậu để xây dựng phù hợp.

Theo baodaknong.org.vn
https://baodaknong.org.vn/chinh-tri/cac-bo-truong-tra-loi-chat-van-truoc-quoc-hoi-28171.html
Copy Link
https://baodaknong.org.vn/chinh-tri/cac-bo-truong-tra-loi-chat-van-truoc-quoc-hoi-28171.html

Nổi bật

    Mới nhất
    Các bộ trưởng trả lời chất vấn trước Quốc hội
    • Mặc định
    POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO