Giải trí

Bài văn mẫu lớp 9: Phân tích bài thơ Viếng lăng bác - Viễn Phương

Kiên Trung28/02/2024 10:43

Bài văn mẫu lớp 9: Phân tích bài thơ Viếng lăng bác - Viễn Phương bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 9

1. Tìm hiểu chung về bài thơ Viếng lăng bác - Viễn Phương

Tác giả Phan Thanh Viễn - Viễn Phương (1928 - 2005)

Phan Thanh Viễn, còn được biết đến với bút danh Viễn Phương hay Đoàn Viễn, là một trong những gương mặt nhà thơ tiêu biểu trong lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam. Ông sinh năm 1928 và mất năm 2005 tại TP.HCM, quê quán tại xã Tân Châu, tỉnh An Giang.

Trong suốt 30 năm tham gia chiến đấu vì độc lập tự do của dân tộc, Viễn Phương đã có những cống hiến đáng kể cho sự nghiệp cách mạng. Truyện ngắn và thơ là hai thể loại sở trường trong sáng tác của ông. Trong đó, thơ là thể loại giúp ông đạt được nhiều thành công nhất trong con đường nghệ thuật. Ngoài ra, các tác phẩm thuộc thể loại ký của ông cũng được đánh giá rất cao.

Các tác phẩm tiêu biểu của Viễn Phương bao gồm: Quê hương địa đạo, Lòng mẹ, Thơ với tuổi thơ, Ngàn say mây trắng, Miền sông nước, Tháng bảy mưa ngâu, Đá hoa cương, Sắc lụa Trữ La, Phù sa quê mẹ, Hình bóng thương yêu, Gió lay hương quỳnh và Ngôi sao xanh.

Trong các tác phẩm của mình, Viễn Phương chủ yếu tập trung khám phá và ca ngợi vẻ đẹp của đất nước, con người trong những cuộc chiến đấu trường kỳ và đầy gian khổ của dân tộc. Phong cách thơ của ông giàu cảm xúc, sâu lắng, tha thiết; giọng thơ nhỏ nhẹ, trong sáng như đang thầm thì; ngôn ngữ thơ đậm đà bản sắc dân tộc. Trong giới nghệ thuật, thơ Viễn Phương được đánh giá là nền nã, man mác, có sự day dứt mà không hề cầu kỳ, kênh kiệu, khoa ngôn. Thơ của ông chính là tấm gương phản chiếu những gì ông thấy trong đời sống của mình.

Năm 2001, Viễn Phương được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật, một sự công nhận xứng đáng cho những đóng góp của ông trong nghệ thuật và văn hóa của Việt Nam.

Hoàn cảnh sáng tác

Đúng vào năm 1976, công trình lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được khánh thành và Viễn Phương – một trong số ít đồng bào chiến sĩ miền Nam có cơ hội viếng thăm lăng Bác.

Bài thơ này là những cảm xúc chân thật của nhà thơ khi đứng trước lăng của Hồ Chủ tịch. Đó là những xúc động thiêng liêng, sự thành kính và lòng biết ơn vô hạn mà Viễn Phương dành cho “vị cha già của dân tộc”.

Bài thơ Viếng lăng Bác được in trong tập thơ “Như mây mùa xuân”, xuất bản năm 1978. Viễn Phương đã sáng tác bài thơ này vào tháng 4 năm 1976, chỉ sau một năm kể từ khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc thắng lợi, miền Nam được giải phóng và đất nước thống nhất.

Bố cục: 4 phần

Phần 1: Khổ 1 (cảm xúc khi nhân vật đến lăng Bác).

Phần 2: Khổ 2 (cảm xúc khi cùng dòng người tiến vào lăng viếng Bác).

Phần 3: Khổ 3 (cảm xúc diễn ra khi ở trong lăng).

Phần 4: Khổ 4 (cảm xúc sau khi dời lăng).

Giá trị nội dung

Thể hiện sự xúc động, thành kính và tự hào của người dân miền Nam khi thăm lăng Bác sau khi miền Nam giải phóng và thống nhất đất nước.

Giá trị nghệ thuật

Tác giả đã sử dụng nhịp thơ chậm và kết hợp giữa thể thơ 8 chữ với dòng thơ 7 hoặc 9 chữ để tạo nên một tác phẩm chất lượng cao, thể hiện được tâm trạng và cảm xúc của tác giả. Đặc biệt, khổ thơ cuối cùng với nhịp đánh nhanh hơn, dồn dập hơn qua biện pháp tu từ điệp ngữ, thể hiện sự khát khao và mong muốn hóa thân của tác giả.

Sử dụng hệ thống hình ảnh thơ sáng tạo và đặc sắc, kết hợp giữa hình ảnh tả thực và hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng. Những hình ảnh ẩn dụ mang tính biểu tượng như “mặt trời trong lăng”, “tràng hoa”, “trời xanh” đã tạo nên một không gian gần gũi, quen thuộc trong bài thơ và mang lại giá trị biểu cảm cao.

phan-tich-ngu-van-9.jpg

2. Dàn ý chung phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương

A. Mở bài

Giới thiệu về bài thơ Viếng lăng Bác: Bài thơ Viếng lăng Bác được viết nên bởi những vần thơ tha thiết bày tỏ niềm thành kính vô hạn và nỗ xúc động khi có dịp ra thăm Bác của Viễn Phương.

B. Thân bài

* 4 câu đầu

Lời xưng hô thân mật, gần gũi, như tình cảm của một đứa con thân yêu dành cho người cha đáng kính.

Hàng tre xanh xanh ấy là sức sống bền bỉ, sự trường tồn của đất nước, dân tộc.

* 8 câu tiếp

Hình ảnh mặt trời ẩn dụ cho con người Bác.

Niềm thương yêu, xúc động kết thành những tràng hoa đẹp nhất để dâng lên Người.

Ánh trăng sáng trong ấy như cách vĩ đại của người, cạo đẹp mà gần gũi thân thương.

Niềm tiếc thương tột độ trước sự ra đi của Người,

* 4 câu cuối

Mong ước giản dị nhưng chất chứa tình cảm lớn lao của người con gửi đến Người:

Muốn làm con chim hót

Muốn làm đóa hoa thơm

Muốn làm cây tre canh giữ giấc ngủ cho Người

Mong ước của mọi con dân Việt Nam gửi đến Bác

C. Kết bài

"Viếng lăng Bác" là kết tinh những tình cảm lớn trong một trái tim bình dị đã chạm đến cảm xúc lòng người đọc một cách tự nhiên, gây thổn thức lòng người.

Viết đoạn văn 1000 từ phân tích bài thơ Viếng lăng Bác ngắn gọn

Bác Hồ là vị cha già kính yêu của dân tộc ta. Để viết về Bác có lẽ chẳng bao giờ có thể ghi hết được công lao to lớn của Người dành cho dân tộc. Ngay cả sau khi Bác mất, rất nhiều bài thơ hay về Bác đã ra đời. Tiêu biểu trong số đó phải kể đến bài thơ Viếng Lăng Bác của Viễn Phương.

Cũng như nhiều người dân khác của nước Việt Nam, mỗi lần nhắc đến Bác Hồ là trong lòng lại trào dâng một nỗi xúc động lớn lao. Sự ra đi của Bác là nỗi tiếc thương cho toàn thể dân tộc Việt. Chính vì vậy mà trong mỗi vần thơ đều có hàm chứa sự biết ơn, lòng tôn kính đối với Người. Và bài thơ Viếng Lăng Bác đã thể hiện rất rõ điều đó.

Mở đầu bài thơ, tác giả cho ta thấy được xuất xứ:

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Lòng tôn kính dành cho Bác đã thôi thúc người chiến sĩ Viễn Phương từ miền Nam ra thăm lăng Bác. Không quản ngại đường xa gian khó. Đến được với Bác là một điều tuyệt vời và có ý nghĩa hơn cả. Nhìn từ đằng xa qua lớp sương mù bao phủ nhưng nhà thơ đã thấy rõ hàng tre:

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng

Thán từ “ôi” gợi lên cho người đọc bao nỗi xúc động lớn lao. Dù chưa gặp Bác mà mới chỉ thấy hàng tre thôi đã khiến cho tác giả nghẹn lòng. “Hàng tre xanh xanh Việt Nam”, một hình ảnh tượng trưng vô cùng tuyệt vời. Người Việt Nam vốn gắn bó với lũy tre xanh. Nhìn thấy tre, ta liên tưởng đến những con người Việt Nam cần cù, chịu khó hai sương, một nắng. Cho dù phải hứng chịu biết bao bom đạn của những năm tháng chiến tranh thì tre và người đều đứng hiên ngang, thẳng hàng.

Hai câu thơ tiếp theo mới thật là đặc sắc:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

Chúng ta đều biết, trong tự nhiên chỉ có một mặt trời. Điệp từ “ngày ngày” cho ta thấy sự diễn biến liên tục của thời gian. Dường như không có một ngày nào mặt trời không đi qua trên lăng Bác. Mặt trời bao trùm lên không gian bên ngoài lăng Bác. Còn không gian bên trong thì đã có một mặt trời khác soi rọi. Mặt trời ấy chính là Bác Hồ. Nhà thơ Viễn Phương đã có sự ví vón vô cùng tinh tế bởi Bác Hồ khi còn sống là người đã chỉ đường cho chúng ta tìm thấy ánh sáng của sự tự do. Màu sắc “rất đỏ” càng làm nổi bật thêm hình ảnh con người Bác.

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân

Hai câu thơ tiếp theo, Viễn Phương vẫn sử dụng điệp từ “ngày ngày” để chỉ sự liên tục tiếp diễn của những dòng người tới viếng lăng Bác. Không riêng gì nhà thơ, ai ai cũng muốn tới thăm Bác một lần để tưởng nhớ người anh hùng của dân tộc. Động từ “dâng” cho thấy sự biết ơn và lòng kính trọng của người dân đối với Bác. Ở đây, tác giả không nói dâng hoa lên Bác mà là “bảy mươi chín mùa xuân” ý chỉ số tuổi của Bác. Bác của chúng ta đã nằm xuống ở tuổi bảy mươi chín.

Khổ thơ thứ ba miêu tả sự bình yên của Bác.

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim

Sau bao nhiêu năm tháng lăn lộn vì Tổ quốc, giờ đây Bác nằm xuống, đôi mắt nhắm tưởng như là đang ngủ. Đó là một giấc ngủ sâu và kéo dài mãi mãi. Nhìn thì bình yên vậy nhưng lòng người ở lại vẫn cứ thấy nhói đau. Đọc câu thơ thôi mà chúng ta cũng thấy gợn trong lòng. Đó là một sự mất mát quá lớn, một nỗi tiếc thương mà bao nhiêu năm cũng chẳng thể nào nguôi ngoai.

Khổ thơ cuối khép lại với lời chào tạm biệt Bác của nhà thơ. Đồng thời, nhà thơ cũng mong ước được hóa thân vào làm chim, làm hoa, làm cây tre để được ở mãi bên cạnh Người.

Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

Qua 4 khổ thơ với giọng điệu chân thành, bình dị, người đọc cảm nhận được tình cảm của nhà thơ miền Nam dành cho Bác kính yêu. Bài thơ khép lại nhưng vẫn đọng lại trong lòng người đọc những nỗi ám ảnh và những nỗi tiếc thương. Nhà thơ Viễn Phương không chỉ nói lên được tình cảm của mình mà còn nói thay cho toàn dân tộc. Thật đáng quý biết bao.

Danh sách đề thi phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương

Đề 1: Phân tích bài thơ “ Viếng lăng Bác” của Viễn Phương

Đề 2: Cảm nhận của em về đoạn thơ sau: Hai khổ thơ đầu bài “ Viếng Lăng bác” của Viễn Phương.

Đề 3: Cảm nhận của em về những khổ thơ sau: ( *)

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.

Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này...”

Đề 4: Cảm nhận về hai khổ đầu (*) bài thơ Viếng lăng Bác

Đề 5: Cảm nhận về hai khổ cuối (*) bài thơ Viếng lăng Bác

Đề 1: Phân tích bài thơ “ Viếng lăng Bác” của Viễn Phương

A. Mở bài

Viễn Phương là cây bút thơ xuất hiện sớm nhất trong lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam. Thơ ông thường nhỏ nhẹ, giàu tình cảm và rất mộc mạc. Một trong những bài thơ tiêu biểu của ông là bài thơ “Viếng lăng Bác”. Bài thơ được viết trong không khí xúc động của nhân dân ta lúc công trình Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được khánh thành sau khi giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Bài thơ thể hiện niềm xúc động thiêng liêng, tấm lòng tha thiết thành kính của nhà thơ, của mọi người đối với Bác.

B. Thân bài

*Mạch cảm xúc: Cảm hứng bao trùm bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, lòng biết ơn tự hào pha lẫn nỗi đau xót khi tác giả Từ miền Nam ra viếng lăng Bác. Mạch vận động của cảm xúc đi theo trình tự cuộc vào lăng viếng Bác. Mở đầu là cảm xúc bên ngoài lăng, tập trung ở ấn tượng đậm nét: về hàng tre bên lăng gợi hình ảnh quê hương, đất nước. Tiếp đó là cảm xúc trước khi trước hình ảnh dòng người như bất tận ngày ngày vào lăng viếng Bác. Xúc cảm và suy ngẫm về Bác được gợi lên từ hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng: mặt trời, vầng trăng, trời xanh cuối cùng là niềm mong ước thiết tha khi sắp phải trở về quê hương Miền Nam muốn tấm lòng mình vẫn mãi mãi ở lại bên lăng với Bác.

1. Khổ 1, 2: Cảm xúc của tác giả khi đứng trước lăng

a. Khổ thơ đầu: Bài thơ là cảm xúc của tác giả khi đứng trước Lăng Bác.

Câu thơ mở đầu: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” chỉ gọn ngắn gọn như một lời thông báo, nhưng lại gợi ra tâm trạng xúc động của một người con từ chiến trường miền Nam sau bao nhiêu năm mong mỏi bây giờ mới được ra thăm viếng Bác. Tác giả dùng đại từ “ con” nghe rất gần gũi, thân thiết, ấm áp tình yêu thương để diễn tả tâm trạng xúc động của người con ra thăm cha cách nói giảm, nói tránh khi dùng từ “thăm” thay cho từ “viếng” để giảm nhẹ nỗi đau thương, mất mát đồng thời khiến mọi người cảm thấy hình ảnh của Bác vẫn còn sống mãi trong tâm tưởng.

Hình ảnh đầu tiên mà tác giả thấy được là ấn tượng đậm nét về cảnh quan bên lăng Bác là hàng tre: “Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát” thì ra đến đây nhà thơ lại gặp một hình ảnh hết sức thân thuộc của làng quê Việt Nam và đã trở thành một biểu tượng của dân tộc “ cây tre”. Cây tre đã trở thành “Cây tre Việt Nam” và là biểu tượng của sức sống bền bỉ, kiên cường của dân tộc. Trước hàng tre Viễn Phương xúc động, tự hào và thốt lên:

“Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.”

Cách nói ẩn dụ “Xanh xanh Việt Nam”, cùng với phép nhân hóa “đứng thẳng hàng” làm nổi bật hình ảnh hàng tre mang màu xanh đất nước, mang dáng dấp của con người Việt Nam hiên ngang, bất khuất . Như vậy khổ thơ đầu bài thơ diễn tả niềm xúc động, thiêng liêng của tác giả khi được vào lăng viếng Bác, khi bắt gặp những hình ảnh hàng tre thân thuộc cảm xúc của tác giả trào dâng.

b. Đứng trước lăng Người tác giả trào dâng niềm xúc động thiêng liêng, thành kính. Khổ thơ thứ hai của bài thơ được tạo nên từ hai cặp câu với những hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ sóng đôi ở cặp thơ thứ nhất:

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”

Hình ảnh “mặt trời đi qua trên lăng” là một hình ảnh thực ( một mặt trời thiên nhiên rực rỡ, vĩnh hằng ngày ngày đi qua trên lăng ). Còn hình ảnh “mặt trời trong lăng” đã được chuyển nghĩa, được tượng trưng hóa (chỉ bác Hồ). Hình ảnh ẩn dụ này vừa nói lên sự vĩ đại của Bác Hồ như mặt trời, vừa thể hiện sự tôn kính của nhà thơ của nhân dân. Đối với Bác Viễn Phương đã ngầm so sánh Bác với “mặt trời”. Nếu mặt trời của thiên nhiên đem lại ánh sáng, sự sống cho muôn loài chỉ Bác Hồ đã đưa đất nước ta từ một đất nước nô lệ tối tăm đến một đất nước độc lập tự do.

Hai câu thơ tiếp theo là cảm xúc của tác giả trước hình ảnh dòng người bất tận ngày ngày vào lăng viếng Bác:

“ Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng 79 mùa xuân”

“ Dòng người đi trong thương nhớ” là hình ảnh thực: Ngày ngày dòng người đi trong nỗi xúc động, bồi hồi trong nỗi tiếc thương vô hạn khi vào lăng viếng Bác. Những dòng người đó xếp thành một hàng dài trông như những tràng hoa vô tận. Còn hình ảnh “tràng hoa” là hình ảnh đẹp và rất sáng tạo của nhà thơ : Chỉ cuộc đời những người đang vào lăng viếng Bác, đã nở hoa dưới ánh sáng của người những bông hoa tươi thắm đó đã được đến dâng lên người những gì tốt đẹp nhất. Hình ảnh ẩn dụ đó thể hiện tấm lòng thành kính của nhà thơ, của nhân dân đối với Bác . “Bảy mươi chín mùa xuân” Là hình ảnh hoán dụ mang ý nghĩa tượng trưng con người “79 mùa xuân” ấy đã sống của cuộc đời đẹp như những mùa xuân và đã làm nên trong mùa xuân đất nước trong cuộc đời như vậy. Ở khổ thơ thứ hai với những hình ảnh ẩn dụ đẹp, nhà thơ đã diễn tả những niềm xúc động thành kính, thiêng liêng của mình và cũng là tất cả của mọi người khi vào lăng viếng Bác.

2. Khổ 3: Cảm xúc của nhà tác giả khi vào trong lăng.

Khổ thơ thứ 3: của bài thơ diễn tả cảm xúc và suy ngẫm của tác giả khi vào trong lăng. Từ lòng thành kính biết ơn chuyển sang niềm xúc động nghẹn ngào khi tác giả vào lăng viếng Bác. Khung cảnh và không khí thanh tĩnh trong lăng ngư ngưng hết cả thời gian, không gian khung cảnh trong lăng Bác được nhà thơ gợi tả rất đạt bằng hai câu thơ giản dị:

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng cho dịu hiền”

Hai câu thơ diễn tả chính xác và tinh tế, sự trang nghiêm yên tĩnh và ánh sáng dịu nhẹ trong trẻo của không gian trong lăng Bác. Bác đang ngủ trong giấc ngủ bình yên, thanh thản giữa “vầng trăng sáng trong dịu hiền”. “Vầng trăng” còn gọi ta suy nghĩ đến trong thơ Bác tràn ngập ánh trăng. Trăng của Bác lên chiến khu, trăng của Bác vào nhà lao, gắn bó với Bác như người bạn tri ân, tri kỷ. Và giờ đây trăng lại canh giấc ngủ cho Bác. Đồng thời những hình ảnh “vầng trăng” nhà thơ còn muốn tạo ra một hệ thống hình ảnh vũ trụ để ví với Bác “vầng trăng” là hình ảnh ẩn dụ chỉ tâm hồn cao đẹp, sáng trong của Bác. Người có lúc là “mặt trời” ấm áp, rực rỡ, có lúc lại dịu hiền như “ánh trăng”. Hình ảnh ẩn dụ đó vừa thể hiện niềm xúc động, vừa thể hiện tấm lòng thành kính của nhà thơ đối với Bác, đứng trước Người nhà thơ có tâm trạng xúc động, tâm trạng được biểu hiện qua một hình ảnh ẩn dụ sâu sắc:

“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi”. “Trời xanh” là hình ảnh ẩn dụ chỉ Bác Hồ với hình ảnh ẩn dụ đó nhà thơ muốn nói với người đọc Bác vẫn còn mãi với non sông đất nước. Người đã hóa thành thiên nhiên, đất nước trường tồn cùng dân tộc, sống mãi trong sự nghiệp và trong tâm trí của người dân như bầu trời xanh vĩnh hằng trên cao. Diễn tả điều này, nhà thơ Tố Hữu đã từng viết: “Bác sống như trời đất của ta”. Như vậy “ vầng trăng”, “ trời xanh”, cũng giống như mặt trời là các hình ảnh kỳ vĩ, rộng lớn tiếp nhau cùng xuất hiện khiến chúng ta phải suy ngẫm về cái bất diệt, cái vô cùng cao cả của một con người.

Dù vẫn tin như thế nhưng tác giả không thể không đau xót trước sự ra đi của Người, nỗi đau xót đó được nhà thơ biểu hiện cụ thể trực tiếp:

“Mà sao nghe nhói ở trong tim”

Nỗi đau của quặn thắt, tê tái trong đáy sâu tâm hồn như hàng nghìn mũi kim đâm vào trái tim đang thổn thức của người con. Động từ “nói” đã diễn tả chính xác sự rung cảm chân thành của Viễn Phương khi đứng trước thi thể Người. Nỗi đau đó có lẽ không phải của riêng Viễn Phương mà là của tất cả mọi người dân Việt Nam.

3. Khổ thơ kết

Khổ thơ kết bài thơ diễn tả tâm trạng lưu luyến của nhà thơ muốn ở bên trong lăng Bác. Bài thơ được viết theo mạch cảm xúc thời gian khi còn đứng trên đất Bắc, nhưng tác giả đã bịn rịn nghĩ đến lúc chia tay, phải xa nơi Bác yên nghỉ. Và đến đây dòng cảm xúc được đẩy lên mức cao nhất, tuôn trào mạnh mẽ nhất:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”

Câu thơ như một lời nói thường, giọng thơ không ổn ào mà đọc lên nghe xúc động vô cùng. Câu thơ như một lời giã biệt, lời nói giản dị mà diễn tả cảm xúc sâu lặng. Từ “trào” đã diễn tả cảm xúc mãnh liệt đó. Đó là sự luyến tiếc, bịn rịn không muốn rời xa nơi Bác nghỉ. Có lẽ tâm trạng của nhà thơ cũng là tâm trạng của muôn triệu con tim bé nhỏ cùng chung nỗi đau. Ở gần Bác dù trong giây phút nhưng có lẽ nhà thơ cũng như bao con người khác không muốn rời xa mà chỉ muốn ở mãi bên người. Nhưng tác giả cũng đã đến lúc phải trở về quê hương miền Nam, và chỉ có thể gửi tấm lòng mình bằng cách hóa thân, hoà nhập vào những cảnh vật ở bên lăng Bác:

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Nhà thơ “muốn làm con chim” cất tiếng hát đẹp đẽ trong lành, những âm thanh tự nhiên đến bên Bác. “ Muốn làm đóa hoa tỏa hương” nơi Bác nghỉ và hơn hết “muốn làm cây tre” để nhập vào hàng tre bát ngát bên lăng để canh giấc ngủ bình yên cho Người. Ước nguyện nhỏ bé đó thật chân thành, giản dị, tha thiết, khiêm nhường, nhưng vô cùng cao đẹp, ý nghĩa. Nhà thơ đã dùng những hình ảnh của thiên nhiên để diễn tả về ước nguyện của mình. Điệp tử “muốn làm” đã được đặt ở đầu câu diễn tả nhấn mạnh tâm trạng lưu luyến, ước nguyện chân thành, tha thiết của nhà thơ khiêm nhường nhưng vô cùng đẹp, ý nghĩa. Nhà thơ đã dùng hình ảnh của thiên nhiên để diễn tả nguyện của mình. Hình ảnh “cây tre” ở đầu bài thơ được lặp lại tạo kết cấu chặt chẽ và khép lại bài thơ cũng khép lại mạch cảm xúc của tác giả. Có lẽ ước nguyện thành kính của Viễn Phương cũng là ước nguyện chung của người dân Việt Nam đã và chưa một lần được gặp Bác.

4. Đánh giá

Qua 4 khổ thơ khá cô đọng, giọng điệu vừa trang nghiêm sâu lắng, vừa tha thiết tự hào pha lẫn nỗi xót đau, cùng với những hình ảnh thơ sáng tạo giàu ý nghĩa biểu tượng. Nhà thơ đã thể hiện niềm xúc động tràn đầy và lớn lao trong lòng khi vào lăng viếng Bác, những tình cảm thành kính, sâu sắc với Bác Hồ.

C. Kết bài

“Viếng lăng Bác” là bài thơ hay, đẹp về hình ảnh, hay về cảm xúc gợi cảm xúc sâu xa trong lòng người đọc. Bài thơ được phổ nhạc thành bài hát, đã trở thành khúc ca về tình cảm với lãnh tụ, xúc động lòng người và còn mãi với thời gian. Bài thơ (đoạn thơ) thể hiện niềm xúc động thiêng liêng, tấm lòng thành kính thiết tha của tác giả từ khi miền Nam mới được giải phóng ra “Viếng lăng Bác”. Đó cũng là tình cảm chung của mỗi người dân Việt Nam người dân miền Nam dành cho Bác. Chúng ta đanh là học sinh còn ngồi trên ghế nhà trường c cần cố gắng thực hiện tốt năm điều Bác Hồ dạy, xứng đáng là con ngoan trò giỏi cháu ngoan Bác Hồ.

Đề 2: Cảm nhận của em về đoạn thơ sau: Hai khổ thơ đầu bài “ Viếng Lăng bác” của Viễn Phương.

A. Mở bài:

Cách 1: Viễn Phương là cây bút thơ xuất hiện sớm nhất trong lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam. Thơ ông thường nhỏ nhẹ, giàu tình cảm và rất mộc mạc. Một trong những bài thơ tiêu biểu của ông là bài thơ “Viếng lăng Bác”. Bài thơ được viết trong không khí xúc động của nhân dân ta lúc công trình Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được khánh thành sau khi giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Bài thơ thể hiện niềm xúc động thiêng liêng, tấm lòng tha thiết thành kính của nhà thơ, của mọi người đối với Bác. Hai khổ thơ đầu của bài thơ đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc, khổ thơ đã thể hiện niềm xúc động thành kính, thiêng liêng của nhà thơ và cũng là tất cả của mọi người khi vào lăng viếng Bác:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

………………………………………….

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...”

Cách 2:

Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, một danh nhân văn hóa thế giới, một trái tim vĩ đại, một nhân cách vĩ đại, người cha già muôn vàn kính yêu của dân tộc Việt Nam. Người ra đi để lại niềm tiếc thương vô hạn cho toàn thể nhân dân. Để rồi 7 năm sau - Năm 1976, nhà thơ Viễn Phương bồi hồi thương nhớ Người và sáng tác lên bài thơ “Viếng lăng Bác”. Bài thơ thể hiện niềm kính yêu, sự xót thương và lòng biết ơn sâu sắc của tác giả nói riêng, của toàn thể đồng bào Việt nói chung với vị lãnh tụ của dân tộc. Hai khổ thơ đầu của bài thơ đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc, khổ thơ đã thể hiện niềm xúc động thành kính, thiêng liêng của nhà thơ và cũng là tất cả của mọi người khi vào lăng viếng Bác:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

………………………………………….

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...”

B. Thân bài

1. Giới thiệu khái quát về bài thơ

Bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương được viết vào năm 1976, một năm sau ngày giải phóng miền Nam, đất nước vừa được thống nhất. Đó cũng là khi lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa được khánh thành, đáp ứng nguyện vọng tha thiết của nhân dân cả nước là được đến viếng lăng Bác. Tác giả là một người con của miền Nam, suốt ba mươi năm hoạt động và chiến đấu ở chiến trường Nam Bộ xa xôi. Cũng như đồng bào và chiến sĩ miền Nam, nhà thơ mong mỏi được ra thăm Bác và chỉ đến lúc này, khi đất nước đã thống nhất, ông mới có thể thực hiện được ước nguyện ấy. Tình cảm đối với Bác trở thành nguồn cảm hứng để ông sáng tác bài thơ này.

2. Cảm nhận đoạn thơ

a. Cảm xúc của nhà thơ khi lần đầu tiên được ra lăng viếng Bác

- Bài thơ được bắt đầu bằng những vần thơ viết về cảm xúc của nhà thơ khi lần đầu tiên được ra lăng viếng Bác:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”

- Câu thơ mở đầu như một lời thông báo ngắn gọn, lời lẽ giản dị nhưng chứa biết bao điều sâu xa, Nhà thơ muốn nói mình là người con ở miền Nam, nơi tuyến đầu của Tổ quốc, ở nơi máu đổ suốt mấy chục năm trời. Như vậy, không đơn giản là chuyên đi thăm công trình kiến trúc, không chỉ chiêm ngưỡng trước di hài một vĩ nhân mà đó là cây tìm về cội, lá tìm về cành, máu chảy về tim, sông trở về nguồn. Đó là cuộc trở về để báo công với Bác, để được Bác ôm vào lòng và ngợi khen.

- Nhà thơ xưng “con” và gọi chủ tịch HCM là “Bác”, chữ “con” lại được đặt ở đầu dòng thơ, đầu bài thơ. Trong ngôn từ của nhân loại không có một chữ nào lại xúc động và sâu nặng bằng tiếng “con”. => Cách xưng hô này thật gần gũi, thân thiết, ấm áp tình thân mà vẫn rất mực thành kính, thiêng liêng. Với cách xưng hô và cách dùng từ của nhà thơ Viễn Phương giúp cho người đọc cảm nhận được tình cảm xúc động, nhớ thương của một người con đối với cha. Một tiếng “con” ấy thôi cũng để diễn tả được tâm trạng xúc động của người con ra thăm cha sau bao nhiêu năm xa cách. Đó không chỉ là tình cảm riêng của nhà thơ mà còn là tình cảm chung của dân tộc Việt Nam. Thế hệ này tiếp nối thế hệ khác song tất cả đều có chung một tình cảm như thế với Bác Hồ kính yêu.

- Nhà thơ sử dụng từ “thăm” thay cho từ “viếng”:

=> Cách nói giảm, nói tránh giảm nhẹ nỗi đau thương mất mát khẳng định Bác vẫn còn mãi trong trái tim nhân dân miền Nam, trong lòng dân tộc. Đồng thời gợi sự thân mật, gần gũi: Con về thăm cha - thăm người thân ruột thịt, thăm chỗ Bác nằm, thăm nơi Bác ở để thỏa lòng khát khao mong nhớ bấy lâu.

- Đến lăng Bác, hình ảnh đầu tiên mà tác giả quan sát được, cảm nhận được, và có ấn tượng đậm nét là hình ảnh hàng tre:

“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát”

- Hình ảnh “hàng tre bát ngát” ẩn hiện trong làn sương sớm mờ ảo trên đường đến thăm Bác chính là hình ảnh tả thực mang dáng hình quê hương đất nước thân yêu, bình dị. Nó cũng là hình ảnh ẩn dụ: biểu tượng cho con người Việt Nam kiên cường, bất khuất, vượt qua “bão táp mưa sa” muôn vàn gian khổ để thống nhất đất nước theo di ngôn của Người, rồi trở về nghiêng mình kính cẩn trước anh linh của Người.

- Những hình ảnh gợi tả gợi cảm kết hợp với nhau đã tạo nên một trường liên tưởng độc đáo, thú vị. Lăng Bác hiện lên dưới ngòi bút nhà thơ như một làng quê yên bình. Trước hàng tre Viễn Phương xúc động, tự hào và thốt lên:

“Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.”

Cách nói ẩn dụ “Xanh xanh Việt Nam”, cùng với phép nhân hóa “đứng thẳng hàng” - là tinh thần đoàn kết đấu tranh, chiến đấu anh hùng, không bao giờ khuất phục, tất cả vì độc lập tự do của nhân dânViệt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ. Với cách nói này tác giả làm nổi bật hình ảnh hàng tre mang màu xanh đất nước, mang dáng dấp của con người Việt Nam hiên ngang, bất khuất.

- Thành ngữ “bão táp mưa sa” nhằm chỉ những khó khăn, gian khổ, những vinh quang và cay đắng mà nhân dân ta đã vượt qua trong trường kì dựng nước và giữ nước, đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ vừa qua.

=> Từ hình ảnh hàng tre bát ngát trong sương quanh lăng Bác, nhà thơ đã suy nghĩ, liên tưởng và mở rộng khái quát thành một hình ảnh hàng tre mang ý nghĩa ẩn dụ, biểu tượng cho sức sống bền bỉ, kiên cường, bất khuất của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Dù gặp bão táp mưa sa - gặp những thăng trầm trong cuộc kháng chiến cứu nước và giữ nước, vẫn “đứng thẳng hàng”, vẫn đoàn kết đấu tranh, chiến đấu anh hùng, không bao giờ khuất phục. Niềm xúc động và tự hào về đất nước, về dân tộc, về những con người Nam Bộ đã được nhà thơ bộc lộ trực tiếp qua từ cảm thán “Ôi” đứng ở đầu câu.

=> Hàng tre ấy như những đội quân danh dự cùng với những loài cây khác đại diện cho những con người ở mọi miền quê trên đất nước ViệtNam tụ họp về đây xum vầy với Bác, trò chuyện và bảo vệ giấc ngủ cho Người. Nơi Bác nghỉ vẫn luôn xanh mát bóng tre xanh.

=> Như vậy khổ thơ đầu bài thơ diễn tả niềm xúc động, thiêng liêng của tác giả khi được vào lăng viếng Bác, khi bắt gặp những hình ảnh hàng tre thân thuộc cảm xúc của tác giả trào dâng.

Chỉ một khổ thơ ngắn thôi nhưng cũng đủ để thể hiện những cảm xúc chân thành, thiêng liêng của nhà thơ và cũng là của nhân dân đối với Bác kính yêu.

b. Cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác:

- Nhà thơ đã có những dòng thơ vô cùng xúc động về cảm xúc của mình khi hòa vào dòng người vào lăng viếng Bác:

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.”

+ Đến đây, nhà thơ tiếp tục sáng tạo những hình ảnh thơ vô cùng độc đáo. Hình ảnh “mặt trời đi qua trên lăng” là hình ảnh thực. Đó là mặt trời thiên tạo, mặt trời của tự nhiên, là hành tinh quan trọng nhất của vũ trụ, nó gợi ra sự kì vĩ, sự bất tử, vĩnh hằng. Mặt trời là nguồn cội của sự sống, ánh sáng.

+ Hình ảnh “mặt trời trong lăng” là một ẩn dụ đầy sáng tạo, độc đáo - đó là hình ảnh của Bác Hồ. Giống như “mặt trời”, Bác Hồ cũng là nguồn ánh sáng, nguồn sức mạnh. “Mặt trời” - Bác Hồ soi đường dẫn lối cho sự nghiệpcách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do, thống nhất đất nước. Bác đã cùng nhân dân vượt qua trăm ngàn gian khổ, hi sinh để đi tới chiến thắng quanh vinh, trọn vẹn. “Mặt trời” - Bác Hồ tỏa hơi ấm tình thương bao la trong lòng mỗi con người Việt Nam.

* Liên hệ mở rộng: Nhà thơ Tố Hữu đã so sánh Bác như:

“Người là Cha, là Bác, là anh

Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ”.

Cái nghĩa, cái nhân lớn lao của Bác đã tác động mạnh mẽ, sâu xa tới mỗi số phận con người.

+ Thật ra so sánh Bác Hồ với mặt trời đã được các nhà thơ sử dụng từ rất lâu:

Người rực rỡ một mặt trời cách mạng

Mà đế quốc là loài dơi hốt hoảng

Đêm tàn bay chập chạng dưới chân người.

( Tố Hữu - “Sáng tháng năm”)

Nhưng cái so sánh ngầm Bác Hồ nằm trong lăng rất đỏ trong cái nhìn chiêm ngưỡng hàng ngày của mặt trời tự nhiên( biện pháp nhân hóa“thấy”) là một sáng tạo độc đáo và mới mẻ của Viễn Phương. Cách ví đó một mặtca ngợi sự vĩ đại, công lao trời biển của Người đối với các thế hệ con ngườiViệt Nam. Mặt khác bộc lộ rõ niềm tự hào của dân tộc Việt Nam khi có Bác Hồ - có được mặttrời của cách mạng soi đường chỉ lối cũng như ánh sáng của mặt trời thiênnhiên.

+ Từ láy “ngày ngày” đứng ở đầu câu vừa diễn tả sự liên tụcbất biến của tự nhiên vừa góp phần vĩnh viễn hóa, bất tử hóa hình ảnh Bác Hồtrong lòng mọi người và giữa thiên nhiên vũ trụ.

- Hình ảnh dòng người vào thăm lăng Bác đã được nhà thơ miêutả một cách độc đáo và để lại nhiều ấn tượng:

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.

+ Từ láy “ngày ngày” có nghĩa tương tự như câu thơ cầu đầutrong khổ thơ => diễn tả cảnh tượng có thực đang diễn ra hàng ngày, đều đặntrong cuộc sống của con người Việt Nam: Những dòng người nặng trĩu nhớ thương từ khắp mọi miền đất nước đã về đây xếp hàng, lặng lẽ theo nhau vào lăng viếng Bác –“Dòng người đi trong thương nhớ”.

+ Bằng sự quan sát trong thực tế, tác giả đã tạo ra một hìnhảnh ẩn dụ đẹp và sáng tạo: “tràng hoa”.

- Hình ảnh “tràng hoa” ở đây được hiểu theo nghĩa thực là những bông hoa tươi thắm kết thành vòng hoa được những người con khắp nơi trên đất nước và thế giới về thăm dâng lên Bác để bày tỏ tình cảm, tấm lòng nhớ thương, yêu quý, tự hào của mình.

- “Tràng hoa” ở đây còn mang nghĩa ẩn dụ chỉ từng người một đang xếp hàng viếng lăng Bác mỗi ngày là một bông hoa ngát thơm. Những dòng người bất tận đang ngày ngày vào lăng viếng Bác nối kết nhau thành những tràng hoa bất tận. Những bông hoa - tràng hoa rực rỡ đó dưới ánh mặt trời của Bác đã trở thành những bông hoa - tràng hoa đẹp nhất dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân” - 79 năm cuộc đời của Người.

=> Hình ảnh thơ trên biểu lộ tấm lòng thành kính, và biết ơn sâu sắc của nhà thơ, của nhân dân đối với Bác Hồ.

3. Đánh giá: nghệ thuật, nội dung

Như vậy, bằng các biện pháp tu từ ẩn dụ, nói giảm nói tránh, các từ ngữ và hình ảnh chọn lọc, 2 khổ thơ đầu đã diễn tả được một cách sâu sắc nỗi niềm xúc động, nghẹn ngào của nhà thơ khi lần đầu tiên được ra lăng viếng Bác. Lời thơ chính là tấm lòng tác giả, của nhân dân cả nước dành cho vị cha già kính yêu của dân tộc. Người sẽ luôn sống và sáng mãi trong lòng dân tộc Việt Nam.

C. Kết bài

Bằng những từ ngữ, lời lẽ chân thành, giàu cảm xúc, nhà thơ Viễn Phương đã bày tỏ được niềm xúc động cùng lòng biết ơn sâu sắc đến Bác trong một dịp ra miền Bắc viếng lăng Bác. Bài thơ như một tiếng lòng chân thành tha thiết mà nhà thơ Viễn Phương đã nói thay cho hàng vạn nhân dân miền Nam, của toàn thể nhân dân Việt Nam đối với Bác. Bày tỏ tình cảm, niềm kính yêu tha thiết nhất, lòng biết ơn thành kính nhất với Hồ Chủ tịch.

Đề 3: Cảm nhận của em về những khổ thơ sau: ( *)

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.

Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này...”

A. Mở bài:

Bác Hồ là tên gọi thân yêu vang âm trong trái tim bao người, là niềm tin, là sức mạnh, là phẩm giá của con người Việt Nam, một người bạn lớn đối với tâm hồn mỗi con người, đối với thiên nhiên tạo vật... Sự vĩ đại, vẻ đẹp của Bác, lòng kính yêu với Bác đã trở thành cảm hứng cho các các nghệ sĩ sáng tạo ra các tác phẩm nghệ thuật bất hủ. Đến sau trong đề tài thơ về Bác do điều kiện, hoàn cảnh: là người con miền Nam, cầm súng ở ngoài tiền tuyến...nhà thơ Viễn Phương đã để lại bài thơ "Viếng lăng Bác" độc đáo, có sức cảm hóa sâu sắc bởi tình đẹp, bởi lời hay. Và đọc bài thơ ấy có lẽ người đọc sẽ không khỏi ấn tượng với hai khổ thở cuối- những lời thơ được coi là hay nhất của tác phẩm:

(trích thơ)

B. Thân bài

1. Giới thiệu khái quát về bài thơ

Bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương được viết vào tháng 4 năm 1976, một năm sau ngày giải phóng miền Nam, đất nước vừa được thống nhất. Đó cũng là khi lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa được khánh thành, đáp ứng nguyện vọng tha thiết của nhân dân cả nước là được đến viếng lăng Bác. Tác giả là một người con của miền Nam, suốt ba mươi năm hoạt động và chiến đấu ở chiến trường Nam Bộ xa xôi. Cũng như đồng bào và chiến sĩ miền Nam, nhà thơ mong mỏi được ra thăm Bác và chỉ đến lúc này, khi đất nước đã thống nhất, ông mới có thể thực hiện được ước nguyện ấy. Tình cảm đối với Bác trở thành nguồn cảm hứng để ông sáng tác bài thơ này.

2. Cảm nhận đoạn thơ

a. Nhắc lại nội dung khổ 1

Ở hai khổ thơ đầu, bằng các biện pháp tu từ ẩn dụ, nói giảm nói tránh, các từ ngữ và hình ảnh chọn lọc, lời thơ đã diễn tả được một cách sâu sắc tấm lòng tác giả, của nhân dân cả nước dành cho vị cha già kính yêu của dân tộc. Người sẽ luôn sống và sáng mãi trong lòng dân tộc Việt Nam. Và tình cảm ấy tiếp tục được bộc bạch ở hai khổ thơ cuối.

b. Những cảm xúc của nhà thơ khi vào lăng viếng Bác

- Vào trong lăng, khung cảnh và không khí như ngưng kết cả thời gian, không gian. Hình ảnh thơ đã diễn tả thật chính xác, tinh tế sự yên tĩnh, trang nghiêm cùng ánh sáng dịu nhẹ, trong trẻo của không gian trong lăng Bác.

- Đứng trước Bác, nhà thơ cảm nhận Người đang ngủ giấc ngủ bình yên, thanh thản giữa vầng trăng sáng dịu hiền.

- Hình ảnh “vầng trăng sáng dịu hiền” gợi cho chúng ta nghĩ đến tâm hồn, cách sống cao đẹp, thanh cao, sáng trong của Bác và những vần thơ tràn ngập ánh trăng của Người. Trăng với Bác đã từng vào thơ Bác trong nhà lao, trên chiến trận, giờ đây trăng cũng đến để giữ giấc ngủ ngàn thu cho Người. => Chỉ có thể bằng trí tưởng tượng, sự thấu hiểu và yêu quí những vẻ đẹp trong nhân cách của Hồ Chí Minh thì nhà thơ mới sáng tạo nên được những ảnh thơ đẹp như vậy!

- Tâm trạng xúc động của nhà thơ được biểu hiện bằng một hình ảnh ẩn dụ sâu xa: “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi”.

+ “Trời xanh” trước tiên được hiểu theo nghĩa tả thực đó là hình thiên nhiên mà chúng ta hằng ngày vẫn đang chiêm ngưỡng, nó tồn tại mãi mãi và vĩnh hằng.

+ Mặt khác, “trời xanh” còn là một hình ảnh ẩn dụ sâu xa: Bác vẫn còn mãi với non sông đất nước, như “trời xanh” vĩnh hằng. Nhà thơ Tố Hữu đã viết: “Bác sống như trời đất của ta”, bởi Bác đã hóa thân thành thiên nhiên, đất nước và dân tộc.

- Dù tin như thế nhưng mấy chục triệu người dân Việt Nam vẫn đau xót và nuối tiếc khôn nguôi trước sự ra đi của Bác – “ Mà sao nghe nhói ở trong tim”.

+ “Nhói” là từ ngữ biểu cảm trực tiếp, biểu hiện nỗi đau đột ngột quặn thắt. Tác giả tự cảm thấy nỗi đau mất mát ở tận trong đáy sâu tâm hồn mình: nỗi đau uất nghẹn tột cùng không nói thành lời. Đó không chỉ là nỗi đau riêng tác giả mà của cả triệu trái tim con người Việt Nam.

+ Cặp quan hệ từ “vẫn, mà” diễn tả mâu thuẫn. Cảm giác nghe nhói ở trong tim mâu thuẫn với nhận biết trời xanh là mãi mãi. Như vậy, giữa tình cảm và lý trí có sự mâu thuẫn. Con người đã không kìm nén được khoảnh khắc yếu lòng. Chính đau xót này đã làm cho tình cảm giữa lãnh tụ và nhân dân trở nên ruột già, xót xa. Cảm xúc đau đớn này, vô vọng này đã từng xuất hiện trong bài thơ của Tố Hữu:

“Trái bưởi kia vàng ngọt với ai

Thơm cho ai nữa hỡi hoa nhài

Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm…”

Cảm xúc này là đỉnh điểm của nỗi nhớ thương, của niềm đau xót. Nó chính là nguyên nhân dẫn đến những khát vọng ở khổ cuối bài thơ.

c. Tâm trạng lưu luyến của nhà thơ khi rời xa lăng Bác:

- Nếu ở khổ thơ đầu, nhà thơ giới thiệu mình là người con miền Nam ra thăm Bác thì trong khổ thơ cuối, nhà thơ lại đề cập đến sự chia xa Bác. Nghĩ đến ngày mai về miền Nam, xa Bác, xa Hà Nội, tình cảm của nhà thơ không kìm nén, ẩn giấu trong lòng mà được bộc lộ thể hiện ra ngoài:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”.

+ Câu thơ “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” như một lời giã biệt.

+ Lời nói giản dị diễn tả tình cảm sâu lắng.

+ Từ “trào” diễn tả cảm xúc thật mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn không muốn xa nơi Bác nghỉ.

+ Đó là không chỉ là tâm trạng của tác giả mà còn là của muôn triệu trái tim khác. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác bởi Người ấm áp quá, rộng lớn quá.

- Mặc dù lưu luyến muốn được ở mãi bên Bác nhưng tác giả cũng biết rằng đến lúc phải trở về miền Nam. Và chỉ có thể gửi tấm lòng mình bằng cách muốn hóa thân, hòa nhập vào những cảnh vật quanh lăng để được luôn ở bên Người trong thế giới của Người:

Muốn làm ……. cây tre trung hiếu chốn này.

+ Điệp ngữ “muốn làm” cùng các hình ảnh đẹp của thiên nhiên“ con chim”, ”đóa hoa”, ”cây tre” đã thể hiện ước muốn tha thiết, mãnh liệt của tác giả.

+ Nhà thơ ao ước được hóa thân thành con chim nhỏ cất tiếng hót làm vui lăng Bác, thành đóa hoa đem sắc hương, điểm tô cho vườn hoa quanh lăng.

+ Đặc biệt là ước nguyện “Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này” để nhập vào hàng tre bát ngát, canh giữ giấc ngủ thiên thu của Người. Hình ảnh cây tre có tính chất tượng trưng một lần nữa nhắc lại khiến bài thơ có kết cấu đầu cuối tương ứng. Hình ảnh hàng tre quanh lăng Bác được lặp ở câu thơ cuối như mang thêm nghĩa mới, tạo ấn tượng sâu sắc, làm dòng cảm xúc được trọn vẹn. “Cây tre trung hiếu” là hình ảnh ẩn dụ thể hiện lòng kính yêu, sự trung thành vô hạn với Bác, nguyện mãi mãi đi theo con đường cách mạng mà Người đã đưa đường chỉ lối. Đó là lời hứa thủy chung của riêng nhà thơ và cũng là ý nguyện của đồng miền Nam, của mỗi chúng ta nói chung với Bác.

2. Đánh giá: nghệ thuật, nội dung

Như vậy, bằng các biện pháp tu từ ẩn dụ, điệp ngữ, các từ ngữ và hình ảnh chọn lọc, 2 khổ thơ cuối đã diễn tả được một cách sâu sắc nỗi niềm xúc động, nghẹn ngào của nhà thơ khi được vào lăng viếng Bác và sự lưu luyến bịn rịn khi sắp phải chia xa. Lời thơ chính là tấm lòng tác giả, của nhân dân cả nước dành cho vị cha già kính yêu của dân tộc. Người sẽ luôn sống và sáng mãi trong lòng dân tộc Việt Nam.

C. Kết bài

Qua 2 khổ thơ với giọng điệu chân thành, bình dị, người đọc cảm nhận được tình cảm của nhà thơ miền Nam dành cho Bác kính yêu. Bài thơ khép lại nhưng vẫn đọng lại trong lòng người đọc những nỗi ám ảnh và những nỗi tiếc thương. Nhà thơ Viễn Phương không chỉ nói lên được tình cảm của mình mà còn nói thay cho toàn dân tộc. Thật đáng quý biết bao.

Đề 4: Cảm nhận về hai khổ đầu (*) bài thơ Viếng lăng Bác

A. Mở bài

Bác Hồ là vị cha già kính yêu của dân tộc ta. Để viết về Bác có lẽ chẳng bao giờ có thể ghi hết được công lao to lớn của Người dành cho dân tộc. Ngay cả sau khi Bác mất, rất nhiều bài thơ hay về Bác đã ra đời. Tiêu biểu trong số đó phải kể đến bài thơ Viếng Lăng Bác của Viễn Phương.

B. Thân bài.

1. Khái quát:

Bài thơ được viết vào tháng 4 năm 1976, một năm sau ngày giải phóng miền Nam, đất nước vừa được thống nhất. Đó cũng là khi lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa được khánh thành, đáp ứng nguyện vọng tha thiết của nhân dân cả nước là được đến viếng lăng Bác. Tác giả là một người con của miền Nam, suốt ba mươi năm hoạt động và chiến đấu ở chiến trường Nam Bộ xa xôi. Cũng như đồng bào và chiến sĩ miền Nam, nhà thơ mong mỏi được ra thăm Bác và chỉ đến lúc này, khi đất nước đã thống nhất, ông mới có thể thực hiện được ước nguyện ấy. Tình cảm đối với Bác trở thành nguồn cảm hứng để ông sáng tác bài thơ này.

2. Cảm nhận

a. Khổ 1

* LĐ 1: Mở đầu bài thơ, tác giả đã giúp người đọc cảm nhận được những tình cảm, cảm xúc của nhà thơ khi lần đầu tiên được ra thăm lăng Bác:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa vẫn thẳng hàng”

Bài thơ được bắt đầu bằng một lời kể hết sức giản dị nhưng chứa đựng trong nó biết bao điều sâu xa. Nhà thơ xưng “con” và gọi chủ tịch HCM là Bác. Đây là cách xưng hô quen thuộc của những người con của vùng đất Nam bộ đồng thời nó cũng gửi gắm biết bao nhiêu tình cảm và nỗi niềm xúc động của nhà thơ. Trong ngôn ngữ của nhân loại thì có lẽ “con” là cách xưng hô thiêng liêng và gần gũi nhất bởi ở đó có cả tình thân máu mủ ruột già. Cách xưng hô của Viễn Phương khiến ta nhớ đến những vần thơ của Tố Hữu:

“Người là Cha, là Bác, là anh

Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ”

Nhà thơ lúc này giống như một đứa con xa cha lâu ngày, ngay trở về thăm cha với bao nghẹn ngào xúc động. Chỉ với một chữ “con” ấy, người đọc cũng đủ cảm nhận được lòng thành kính và niềm biết ơn vô hạn của nhà thơ đối với Bác Hồ. và cũng trong câu thơ mở đầu này, nếu để ý người đọc có thể nhận thấy tác giả đã sử dụng BPTT nói giảm nói tránh khi sử dụng từ “thăm” thay cho từ “viếng” ở nhan đề bài thơ. Viếng có nghĩa là thắp hương, phúng viếng người đã khuất còn “ thăm” là thăm hỏi, trò chuyện với người vẫn còn sống trên đời. Với cách dùng từ như thế, Viễn Phương đã làm vơi đi những đau buồn, mất mát cho người đọc khi Bác đã không còn. Tuy nhiên không chỉ có thế, lời thơ ấy còn là lời khẳng định Bác sẽ còn sống mãi trong trái tim của mỗi con người VN.

Ra thăm lăng Bác, điều đầu tiên gây ấn tượng cho tác giả là hình ảnh “hàng tre”. Miêu tả hình ảnh này, tác giả viết:

“Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa vẫn thẳng hàng”

Hàng tre trong câu thơ này là một hình ảnh giàu ý nghĩa là gợi nhiều liên tưởng trong lòng người đọc. Đó trước hết là một hình ảnh thực. Đó là rặng tre đằng ngà được trồng bên lăng Bác. Song không chỉ có thế, đây còn là một hình ảnh ẩn dụ đầy sáng tạo. Nó làm ta liên tưởng đến những lũy tre xanh mát ở làng quê VN gợi cuộc sống thanh bình yên ả nơi thôn dã. Hình ảnh ấy còn là biểu tượng của con người và dân tộc Việt Nam bền bỉ, dẻo dai, bất khuất, kiên cường. Hàng tre ấy cũng như những con người VN ta dù phải trải qua bao “bão táp mưa sa” thì vẫn “đứng thẳng hàng”. Câu thơ như một lời khẳng định dân tộc ta dù có gian khổ, khó khăn thì vẫn hiên ngãng, kiên cường, bất khuất. Ý thơ có sự đồng điệu với những câu thơ trong bài “Tre Việt Nam” của nhà thơ Nguyễn Duy:

“Ở đâu tre cũng xanh tươi

Cho dù đất sỏi đá vôi bạc màu”

Có thể thấy rằng, khổ thơ đầu tiên đã để lại rất nhiều ấn tượng trong lòng bạn đọc. bằng những từ ngữ và hình ảnh chọn lọc, lời thơ cho ta nhận ra niềm xúc động của nhà thơ khi được ra lăng viếng Bác. Đồng thời cũng qua đó ta cảm nhận được lòng thành kính và niềm biết ơn vô hạn của Viễn Phương dành cho Bác Hồ kính yêu.

b. Khổ 2

Và tình cảm ấy lại tiếp tục được thể hiện ở khổ thơ thứ 2 thông qua các hình ảnh ẩn dụ rất đẹp:

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”

Đọc khổ thơ này, người đọc không khó để nhận ra một phép ẩn dụ vô cùng độc đáo. Nhà thơ đã mượn hình ảnh “mặt trời” để nói về Bác Hồ. Nếu như “mặt trời” ở câu thơ thứ nhất là mặt trời của tự nhiên, tạo hóa, đem nguồn sống và ánh sáng cho vạn vật thì “mặt trời” ở câu thơ thứ hai chính là ẩn dụ cho cuộc đời và sự vĩ đại của chủ tịch HCM. Cũng giống như mặt trời của tự nhiên, bác đã tìm ra con đường đi cho cách mạng Việt Nam rồi soi sáng cho dân tộc ta bước tiếp trên con đường đi ấy. Bác đã đưa đất nước ta từ vũng bùn nô lệ sang một kỉ nguyên mới - kỉ nguyên của độc lập tự do. Không chỉ có VP, Tố Hữu cũng có những vần thơ viết về Người như thế:

“Người rực rỡ một mặt trời cách mạng

Còn đế quốc là loài dơi hốt hoảng

Đêm tàn bay chập choạng dưới chân Người”

Tuy nhiên nét đặc biệt trong thơ VP là ông còn để cho mặt trời của tự nhiên được ngắm nhìn, chiêm ngưỡng “mặt trời trong lăng”. Phép ẩn dụ kết hợp nhân hóa ấy đã cho ta nhận ra sự vĩ đại và công lao to lớn của CTHCM và cũng qua đó, lời thơ đã khẳng định Bác sẽ còn mãi, sẽ trường tồn bất diệt trong lòng mỗi người dân đất Việt. Lời thơ thật đơn giản nhưng chứa đựng trong đó là cả một tấm lòng. Chúng ta nhận ra trong những câu thơ ấy là tình yêu thương và niềm biết ơn vô hạn của nhà thơ đối với Bác

Nếu như ở hai câu thơ trên nhà thơ mượn hình ảnh “mặt trời” để nói về sự vĩ đại của bác thì ở hai câu thơ tiếp theo ông lại miêu tả dòng người vào thăm lăng:

“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”

Lời thơ được bắt đầu bằng trạng từ “ngày ngày” qua đó diễn tả hoạt động lặp đi lặp lại. Nó cho người đọc hình dung được cảnh tượng mỗi ngày đều có những dòng người vào lăng viếng Bác với nỗi xúc đông nghẹn ngào và niềm nhớ thương vô hạn. Ở hai câu thơ này, VP tiếp tục sáng tạo một hình ảnh ẩn dụ vô cùng đẹp đẽ. Đó là hình ảnh “tràng hoa”. Hình ảnh ấy gợi lên trong ta biết bao nhiêu liên tưởng thú vị. Nó khiến ta nghĩ đến những vòng hoa tươi thắm mà mỗi đoàn viếng thăm đều dâng lên người. Tuy nhiên không chỉ có thế, hình ảnh này còn là ẩn dụ cho những dòng người đang nối nhau vào lăng viếng Bác. Trong đoàn người ấy, có thể có một người con của thủ đô HN, một người từ vùng đất Nam bộ xa xôi, một cụ già, một em nhỏ hay có khi là một du khách nước ngoài. Và trong đoàn người ấy lúc này chắc chắn không thể thiếu nhà thơ. Mượn hình ảnh “tràng hoa” để miêu tả cảnh dòng người vào lăng viếng Bác là nhà thơ đã giúp người đọc cảm nhận được niềm kính yêu, sự ngưỡng mộ của cả dân tộc và của cả nhân loại đối với Bác.

3. Đánh giá:

Như vậy, bằng hàng loạt các hình ảnh ẩn dụ, các từ ngữ chọn lọc và giọng điệu tha thiết, chân thành, 2 khổ thơ đầu của bài thơ “VLB” đã giúp người đọc cảm nhận được trọn vẹn nỗi xúc động nghẹn ngào, lòng thành kính và niềm biết ơn vô hạn của nhà thơ đối với Bác. Và cũng qua những vần thơ ấy ta nhận ra Bác vẫn còn mãi trong trái tim của mỗi con người, và của cả dân tộc Việt Nam.

C. Kết bài

Bài thơ tả lại một ngày Viễn Phương ra thăm lăng Bác từ tinh sương đến trưa, rồi đến chiều. Xuyên suốt bài thơ là sự trào dâng của niềm thương nhớ bao la, xót thương vô hạn, được thể hiện qua đầy ắp những ẩn dụ đẹp và trang nhã từ tận cõi lòng của nhà thơ. Chính vì thế, “Viếng lăng Bác” là một đóng góp quý báu vào kho tang thi ca viết về Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại, kính yêu của dân tộc Việt Nam ta.

Đề 5: Cảm nhận về hai khổ cuối (*) bài thơ Viếng lăng Bác

A. Mở bài

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam thường nói “Miền Nam trong trái tim” hẹn ngày thống nhất Bác sẽ vào thăm. Vậy mà khi miền Nam giải phóng, nước nhà thống nhất thì Bác lại không còn nữa. Những người con miền Nam nhớ Bác cũng chỉ biết vào lăng viếng Bác và Viễn Phương là một trong những người con đó. Với cảm xúc dâng trào của đứa con về thăm cha, Viễn Phương đã cho ra đời bài thơ Viếng lăng Bác thể hiện tình cảm của nhà thơ, của những đứa con dân tộc, của tiếng lòng kính yêu dâng lên Bác.

B. Thân bài

1. Khái quát

Đây là một trong những bài thơ cảm động và xuất sắc nhất viết về lãnh tụ Hồ Chí Minh. Bài thơ được viết theo thể thơ tự do, gồm 4 khổ, mỗi khổ có 4 câu. Cảm hứng bao trùm bài thơ là niềm xúc động, thành kính là lòng biết ơn và tự hào, xen lẫn nỗi xót đau khi tác giả từ miền Nam ra Viếng lăng Bác. Giọng điệu thành kính, trang nghiêm của bài thơ rất phù hợp với cảm xúc, và cũng phù hợp với không khí trang nghiêm nơi lăng Bác. Mạch cảm xúc vận động theo trình tự thời gian kết hợp với không gian của một chuyến viếng thăm.

Vì vậy, đọc bài thơ mà như ta theo chân tác giả vào lăng viếng Bác. Khổ 1 cảm xúc về cảnh bên ngoài lăng tập trung ở hình ảnh hàng tre; khổ 2-3 từ dòng người bất tận ngày ngày vào lăng viếng Bác, nhà thơ cảm xúc và suy ngẫm về lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Khổ 4 là cảm xúc khi sắp phải trở về miền Nam, nhà thơ mong muốn lòng mình được mãi mãi ở lại nơi lăng Bác.

2. Cảm nhận

Ở hai khổ thơ đầu, VP đã giúp người đọc cảm nhận được những nỗi niềm xúc động, lòng thành kính và niềm biết ơn vô hạn của nhà thơ đối với Bác. Và tình cảm ấy tiếp tục được thể hiện ở khổ thơ thứ 3:

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim”

Vào lăng viếng Bác, Viễn Phương đã thực sự xúc động khi được chiêm ngưỡng di hài chủ tịch Hồ Chí Minh. Câu thơ “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên” đã được tác giả sử dụng BPTT nói giảm nói tránh. Ông không muốn thừa nhận là Bác đã ra đi mãi mãi, càng không muốn để người đọc cảm thấy đau lòng trước sự thật này. Với VP, sự ra đi của Bác thực sự chỉ là một “giấc ngủ bình yên” giữa một “vầng trăng sáng dịu hiền”. Hình ảnh “vầng trăng” trong khổ thơ này gợi lên cho ta rất nhiều liên tưởng. Hình ảnh ấy khiến ta nghĩ đến một cuộc đời giản dị, trong sáng và lối sống thanh bạch của người. Không chỉ thế, cũng từ hình ảnh ấy, ta còn liên tưởng đến những vần thơ ngập tràn ảnh trăng của Bác. Đột nhiên những câu thơ được Bác viết trong những ngày bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam như lại vang lên trong lòng người đọc:

“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”

Tuy nhiên đặc biệt hơn cả ở trong khổ thơ này là hình ảnh ẩn dụ “trời xanh”. Đây là một hình ảnh độc đáo và rất giàu ý nghĩa. Nhà thơ mượn hình ảnh “trời xanh” để nói về sự bất tử của Người, để khẳng định bác sẽ luôn còn mãi với non sông, đất nước. Tố Hữu cũng từng có những vần thơ giống như vậy:

“Bác sống như trời đất của ta

Yêu từng ngọn lúa mỗi nhành hoa”

Như thế có nghĩa là không chỉ với VP mà còn với nhiều nhà thơ khác, và với cả dân tộc thì Bác vẫn còn sống mãi. Biết là thế, nhưng nhà thơ vẫn cảm thấy “nghe nhói ở trong tim”. “Nhói” là động từ diễn tả cảm xúc trực tiếp, “nhói” có nghĩa là đau đớn, quặn thắt đến tột độ. Sự ra đi của Người đã khiến cho nhân dân cả nước nói chung, nhân dân Miền Nam và VP nói riêng vô cùng xót xa đau đớn. Nghĩ về sự ra đi của Bác, không ít người đã rơi lệ bởi đó là nỗi đau thương mất mát quá lớn của dân tộc VN. Có lẽ cũng vì thế mà có một nhà thơ đã thốt lên rằng:

“ Trái bưởi kia vàng ngọt với ai

Thơm cho ai nữa hỡi hoa nhài”

Có thể thấy rằng khổ thơ thứ 3 đã diễn tả đầy đủ và trọn vẹn nỗi niềm xúc động, nghẹn ngào của nhà thơ khi được vào lăng viếng Bác và sự đau đớn xót xa khi Bác đã ra đi. Những cảm xúc ấy chính là minh chứng cho lòng yêu mến và sự biết ơn vô hạn của nhà thơ dành cho vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc VN.

3. Khổ 4

Và đến khổ cuối của bài thơ, những tình cảm dành cho Bác lại được thể hiện thông qua những ước nguyện:

“ Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Khổ thơ thứ tư chính là những cảm xúc luyến thương, bịn rịn của nhà thơ khi nghĩ đến việc ngày mai phải trở về Miền Nam, xa Bác, xa Hà Nội. Dường như lúc này tình cảm không thể kìm nén được nữa phải thốt ra thành lời. Câu thơ “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” giống như một lời giã biệt- một lời nói giản dị nhưng thiết tha vô cùng. Viễn Phương không muốn rời xa Bác dù là trong phút giây bởi Bác ấm áp, gần gũi và rộng lớn quá. Tuy nhiên, hiện thực chẳng như mong muốn, VP vẫn phải trở về Miền Nam. Không còn cách nào khác, ông chỉ có thể gửi gắm lòng mình bằng ước nguyện hóa thân vào cảnh vật:

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Lời thơ cho ta nhận ra BPTT điệp ngữ với điệp từ “muốn” được nhắc lại 3 lần và được đặt ở đầu các câu thơ, và đằng sau đó là những hình ảnh vô cùng đẹp đẽ. Nhà thơ muốn được làm con chim để hót vui lăng Bác, muốn được làm một đóa hoa để tô điểm hương sắc cho vườn hoa quanh lăng. Lời thơ khiến ta nhớ đến ước nguyện của Thanh Hải trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”

“Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến”

Nếu như Thanh Hải muốn hóa thân vào cảnh vật để làm đẹp cho cuộc đời, để cống hiến mùa xuân của cuộc đời mình vào mùa xuân chung của dân tộc thì với VP, ước nguyện hóa thân vào cảnh vật là để được bên Bác suốt đời. Tuy nhiên đặc biệt hơn cả là ước nguyện được làm “cây tre trung hiếu”. Hình ảnh cây tre đã từng xuất hiện ở khổ 1 giờ lại một lần nữa xuất hiện ở khổ cuối thông qua ước nguyện của nhà thơ. Nó tạo ra cái kết cấu đầu cuối tương ứng cho tác phẩm. Nếu như ở khổ 1, cây tre là biểu tượng của con người VN dũng cảm, kiên cường thì ở khổ thơ này, cây tre ấy lại gửi gắm ước nguyện của tác giả. Ồn muốn được làm một cây tre để nhập vào hàng tre bát ngát canh giữ giấc ngủ nghìn thu cho Người. Và phải chăng ước nguyện ấy chính là lời hứa thủy chung với con đường mà Bác đã chọn. Với những ý nghĩa như thế, khổ thơ cuối thực sự đã tạo ra những ấn tượng mạnh mẽ trong lòng bạn đọc

4. Đánh giá

Như vậy, bằng hàng loạt các hình ảnh và từ ngữ chọn lọc và giọng điệu tha thiết, chân thành, 2 khổ thơ cuối của bài thơ “VLB” đã giúp người đọc cảm nhận được trọn vẹn nỗi niềm lưu luyến, bịn rịn của nhà thơ khi sắp phải xa Bác đồng thời thể hiện lòng thành kính và niềm biết ơn vô hạn của nhà thơ đối với vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc VN. Và cũng qua những vần thơ ấy ta nhận ra Bác vẫn còn mãi trong trái tim của mỗi người dân đất Việt.

C. Kết bài

Với bài thơ “Viếng lăng Bác” Viễn Phương đã đóng góp không nhỏ cho thi ca đề tài về Bác. Dù bao năm qua đi, bài thơ mãi mãi là tác phẩm đầy xúc cảm gửi gắm những giá trị tốt đẹp vĩnh cửu mà nhà thơ và toàn thể dân tộc dành cho Bác. Cảm ơn Viễn Phương đã để lại cho đời một bài thơ hay như thế. Đã hơn 50 năm kể từ ngày Bác đã ra đi vào cõi vĩnh hằng và cũng hơn một thập kỉ Viễn Phương trở nhưng dư âm của bài thơ “Viếng lăng Bác” nói chung và hai đoạn thơ trên nói riêng sẽ còn mãi ngân vang trong tâm hồn mỗi người con đất Việt.

x
    Nổi bật
        Mới nhất
        Bài văn mẫu lớp 9: Phân tích bài thơ Viếng lăng bác - Viễn Phương
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO