Giải trí

7 bài phân tích bài thơ Đồng chí - Chính Hữu - Văn mẫu lớp 9

Kiên Trung14/03/2024 14:09

Bài văn mẫu lớp 9: Phân tích bài thơ Đồng chí - Chính Hữu bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn ngữ văn 9

Mục lục

1. Tìm hiểu chung về bài thơ Đồng chí - Chính Hữu

Tác giả Chính Hữu (1926-2007)

Chính Hữu, tên khai sinh Trần Đình Đắc (1926-2007), quê: Can Lộc, Hà Tĩnh.

Năm 1946, ông gia nhập Trung đoàn Thủ đô và hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ.

Năm 1947, ông bắt đầu sáng tác thơ và thơ ông chủ yếu viết về người lính và chiến tranh với cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ cô đọng.

Năm 2000, ông được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học – nghệ thuật.

Phong cách sáng tác

Những sáng tác của ông không nhiều nhưng phần lớn là những bài thơ mang đậm dấu ấn cá nhân với cảm xúc dồn nén, vừa thiết tha, trầm hùng lại vừa sâu lắng, hàm súc, ngôn ngữ, hình ảnh chọn lọc, đặc sắc ⇒ Làm nên một nhà thơ với phong cách bình dị.

+ Ông bắt đầu sự nghiệp sáng tác thơ năm 1947

+ Đề tài chủ yếu trong các sáng tác tác của Chính Hữu là đề tài chiến tranh và người lính

+ Tác phẩm chính làm nên tên tuổi của Chính Hữu là tập thơ Đầu súng trăng treo (1966). Ngoài ra các tác phẩm của ông còn có Thơ Chính Hữu (1997), Ngọn đèn đứng gác ...

Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Đồng chí

Bài thơ Đồng chí được sáng tác vào đầu năm 1948 – sau chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947). Trong chiến dịch này, Chính Hữu là chính trị viên đại đội, ông có nhiều nhiệm vụ nhất là việc chăm sóc anh em thương binh và chôn cất một số tử sĩ. Sau chiến dịch, vì là rất vất vả, nên ông bị ốm nặng, phải nằm lại điều trị. Đơn vị đã cử một đồng chí ở lại để chăm sóc cho Chính Hữu và người đồng đội ấy rất tận tâm giúp ông vượt qua những khó khăn, ngặt nghèo của bệnh tật. Cảm động trước tấm lòng của người bạn, ông đã viết bài thơ Đồng chí như một lời cảm ơn chân thành nhất gửi tới người đồng đội, người bạn nông dân của mình.

Bài thơ được in trong tập Đầu súng trăng treo (1966) – tập thơ phần lớn viết về người lính trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Bố cục: 3 phần

+ Bảy câu thơ đầu: Cơ sở hình thành tình đồng chí.

+ Mười câu thơ tiếp: Biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí.

+ Ba câu thơ cuối: Bức tranh đẹp về tình đồng chí, biểu tượng cao cả của cuộc đời người chiến sĩ.

Chủ đề

Ngợi ca tình đồng đội, đồng chí cao cả, thiêng liêng của các anh bộ đội Cụ Hồ - những người nông dân yêu nước mặc áo lính trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Giá trị nội dung

Bài thơ nói về tình đồng chí, đồng đội thắm thiết, sâu nặng của những người lính cách mạng dựa trên cơ sở cùng chung cảnh ngộ và lí tưởng chiến đấu. Tình đồng chí góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh và phẩm chất của những người lính cách mạng. Qua đó hiện lên hình tượng chân thực, giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội cụ Hồ thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Giá trị nghệ thuật

Bài thơ thành công về nghệ thuật bởi thể thơ tự do linh hoạt, các chi tiết, hình ảnh được sử dụng mang tính tiêu biểu, chân thực, ngôn ngữ cô đọng, giản dị và giàu sức biểu cảm.

2. Dàn ý chung phân tích bài thơ Đồng chí - Chính Hữu

A. Mở bài

Giới thiệu về tác giả Tố Hữu và bài thơ Đồng chí.

Chính Hữu là một trong những nhà thơ xuất sắc trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Trong số những tác phẩm của ông, có một bài thơ đã gây nên tiếng vang lớn trong lòng độc giả, bởi những xúc cảm dạt dào, chân thực giữa những người lính, những người đồng đội. Đó là bài thơ Đồng chí. Qua những vần thơ bình dị, bài thơ đã thể hiện tình cảm gắn bó, tình đồng đội giữa những người chiến sĩ và ngợi ca tình cảm cao đẹp ấy.

B. Thân bài

1. Khái quát chung

- Hoàn cảnh sáng tác:

Xuất xứ: Bài thơ “Đồng chí” được in trong tập thơ “Đầu súng trăng treo”, xuất bản năm 1966

Bài thơ được sáng tác vào mùa xuân năm 1948, sau khi Chính Hữu tham gia chiến dịch Việt Bắc Thu – Đông năm 1947. Bài thơ là những trải nghiệm của tác giả về thực tế cuộc sống của bộ đội ta trong những ngày đầu kháng chiến đầy khó khăn, thử thách.

Thời điểm sáng tác bài thơ “Đồng chí”: khi đó, Chính Hữu mới vừa tròn 20 tuổi; đảm nhiệm vị trí chính trị viên đại đội thuộc Trung đoàn Thủ Đô. Tác phẩm “Đồng chí” được ra đời khi đại đội của ông được biệt phái đi truy kích địch trên vùng Việt Bắc (hay còn biết đến là chiến dịch Việt Bắc – Thu Đông năm 1947)

Những người lính tham gia chiến dịch có xuất thân là nông dân, thợ thuyền, trí thức đều tự nguyện gia nhập các đội dân quân, du kích hoặc các lực lượng vũ trang quân đội nhân dân để chiến đấu bảo vệ độc lập của dân tộc. Tuy không phải lính tinh nhuệ nhưng họ là lực lượng chiến đấu vô cùng quan trọng, luôn sẵn sàng hy sinh, chịu đựng, vượt qua mọi gian khổ để chiến thắng kẻ thù.

Bên cạnh đó, hoạt động của bộ đội phải hết sức tuyệt mật kín đáo, vì tính đặc biệt của nhiệm vụ họ đang đảm nhiệm. Khi cuộc sống trở nên càng ác liệt, càng gian khổ thì những người lính lại càng quyết tâm, tinh thần đồng đội càng thêm thắm thiết và bền chặt bấy nhiêu

Cuộc sống người lính lúc ấy hiện lên trong mắt Chính Hữu thật gian khổ. Quân đội ta phải kháng chiến chống Pháp trong đơn độc mà không có sự giúp đỡ hay hỗ trợ từ quốc tế. Trên chiến trường, bộ đội ta buộc phải tự lực cánh sinh, nhân dân thì vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Vì vậy, các nhu cầu về lương thực, trang phục, nơi trú ẩn hay vũ khí súng đạn của bộ đội đều trong tình trạng vô cùng khó khăn và thiếu thốn. Thậm chí quân ta còn phải tự sản xuất, chế tạo nhiều loại vũ khí, tuy thô sơ nhưng giúp họ luôn trong tâm thế chủ động, sẵn sàng chiến đấu với giặc.

Trong chiến dịch này, theo lời Chính Hữu kể lại: “không có tình bạn thì không tồn tại được”. Sau chiến dịch phục kích năm ấy, ông đã đổ bệnh, đơn vị phải tiếp tục hành quân, nhưng thay vì để ông lại một mình, họ đã cử một anh lính ở lại trông nom, chăm sóc ông. Chính nhờ một phần sự tận tình của anh lính và tình cảm của đồng đội mà sau trận ốm đó, Chính Hữu đã sáng tác bài thơ “Đồng chí” chỉ trong một hai đêm. Hình ảnh “anh bạn” trong bài thơ thực chất không phải là nhân vật mà là một gợi ý, một nguyên mẫu về người đồng đội tham gia kháng chiến cùng ông.

Trong khoảng thời gian bị ốm trong đơn vị, Chính Hữu chỉ thấy xung quanh mình 3 hình ảnh là: súng, bạn và trăng. Điều này lý giải cho việc cả bài thơ người đọc sẽ chỉ thấy 3 hình tượng này được tô đậm và quấn quýt lấy nhau. Bài thơ “Đồng chí” tuy sáng tác giữa chiến dịch nhưng không miêu tả diễn biến trận đánh hay kể lể về những gian khổ. Thay vào đó, bài thơ chủ yếu tôn vinh tình cảm, tình người của những người lính có cùng nỗi suy tư, cùng lý tưởng sống, cùng một tiêu để hướng đến.

- Khái quát nội dung bài thơ:

Qua bài thơ “Đồng chí” Chính Hữu đã khám phá, ngợi ca một tình cảm đẹp giữa những người lính cách mạng, đó là tình đồng chí. Trong đó, những người lính chính là những anh vệ quốc đoàn, những chiến sĩ Ðiện Biên… là những người nông dân vừa rời cuốc cày đã bước vào chiến trận. Mặt khác, tác phẩm còn tô đậm hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ thời kì đầu kháng chiến chống Pháp, với nét đời thường, đời sống tình cảm mộc mạc, chân thành với đồng đội và quê hương.

2. Phân tích

Đoạn 1: Bảy câu thơ đầu: Cơ sở hình thành tình đồng chí

1. Cơ sở thứ nhất: Cùng chung hoàn cảnh xuất thân

- Những chiến sĩ xuất thân từ những người nông dân lao động. Từ cuộc đời thật họ bước thẳng vào trang thơ và tỏa sáng một vẻ đẹp mới, vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội:

Quê hương anh nước mặn, đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

+ Thủ pháp đối được sử dụng chặt chẽ ở hai câu thơ đầu, gợi lên sự đăng đối, tương đồng trong cảnh ngộ của người lính. Từ những miền quê khác nhau, họ đã đến với nhau trong một tình cảm mới mẻ.

+ Giọng thơ nhẹ nhàng, gần gũi như lời tâm tình, thủ thỉ của hai con người “anh” và “tôi”.

+ Mượn thành ngữ “nước mặn đồng chua” để nói về những vùng đồng chiêm trũng, ngập mặn ven biển, khó làm ăn. Cái đói, cái nghèo như manh nha từ trong những làn nước.

+ Hình ảnh “đất cày lên sỏi đá” để gợi về những vùng trung du, miền núi, đất đá bị ong hóa, bạc màu, khó canh tác. Cái đói, cái nghèo như ăn sâu vào trong lòng đất.

=> “Quê hương anh” - “làng tôi” tuy có khác nhau về địa giới, người miền xuôi, kẻ miền ngược nhưng cũng đều khó làm ăn canh tác, đều chung cái nghèo, cái khổ. Đó chính là cơ sở đồng cảm giai cấp của những người lính.

2. Cơ sở thứ 2: Cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ và lòng yêu nước

“Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Súng bên súng, đầu sát bên đầu”

- Những con người chưa từng quen biết, đến từ những phương trời xa lạ đã gặp nhau ở một điểm chung: cùng chung nhịp đập trái tim, cùng chung một lòng yêu nước và cùng chung lí tưởng cách mạng. Những cái chung đó đã thôi thúc họ lên đường nhập ngũ.

- Hình ảnh thơ “súng bên súng, đầu sát bên đầu” mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc diễn tả sự gắn bó của những người lính trong quân ngũ:

+ “Súng bên súng” là cách nói giàu hình tượng để diễn tả về những người lính cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ chiến đấu. Họ ra đi để chiến đấu và giải phóng cho quê hương, dân tộc, đất nước; đồng thời giải phóng cho chính số phận của họ.

+ “Đầu sát bên đầu” là cách nói hoán dụ, tượng trưng cho ý chí quyết tâm chiến đấu của những người lính trong cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.

- Điệp từ “súng, bên, đầu” khiến câu thơ trở nên chắc khỏe, nhấn mạnh sự gắn kết, cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ của những người lính.

- Nếu như ở cơ sở thứ nhất “anh” - “tôi” đứng trên từng dòng thơ như một kiểu xưng danh khi gặp gỡ, vẫn còn xa lạ, thì ở cơ sở thứ hai “anh” với “tôi” trong cùng một dòng thơ, thật gần gũi. Từ những người xa lạ họ đã hoàn toàn trở nên gắn kết.

=> Chính lí tưởng và mục đích chiến đấu là điểm chung lớn nhất, là cơ sở để họ gắn kết với nhau, trở thành đồng chí, đồng đội của nhau.

3. Cơ sở thứ 3: Cùng trải qua những khó khăn, thiếu thốn.

- Bằng một hình ảnh cụ thể, giản dị mà giàu sức gợi, tác giả đã miêu tả rõ nét tình cảm của những người lính: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”

+“Đêm rét chung chăn” có nghĩa là chung cái khắc nghiệt, gian khổ của cuộc đời người lính; là chung hơi ấm để vượt qua giá lạnh nơi núi rừng. Đó là một hình ảnh đẹp, chân thực và đầy ắp những kỉ niệm.

+ Đắp chung chăn đã trở thành biểu tượng của tình đồng chí. Nó đã khiến những con người “xa lạ” sát gần lại bên nhau, truyền cho nhau hơi ấm và trở thành “tri kỉ”

+ Cả bài thơ chỉ có duy nhất một chữ “chung” nhưng đã bao hàm được ý nghĩa sâu sắc và khái quát của toàn bài: chung cảnh ngộ, chung giai cấp, chung chí hướng, chung khát vọng giải phóng dân tộc.

- Tác giả đã rất khéo léo trong việc lựa chọn từ ngữ, khi sử dụng từ “đôi” ở câu thơ trên:

+ Chính Hữu không sử dụng từ “hai” mà lựa chọn từ “đôi”. Vì đôi cũng có nghĩa là hai, nhưng đôi còn thể hiện sự gắn kết không thể tách rời.

+ Từ “đôi người xa lạ” họ đã trở thành “đôi tri kỉ”, thành đôi bạn tâm tình thân thiết, hiểu bạn như hiểu mình.

- Khép lại đoạn thơ, là một câu thơ có một vị trí rất đặc biệt. Câu thơ “Đồng chí!” được tách riêng ở một dòng thơ rất đặc biệt, chỉ gồm một từ, hai tiếng và dấu chấm than như một sự phát hiện, một lời khẳng định, nhấn mạnh tính đồng chí là một tình cảm mới mẻ nhưng hết sức thiêng liêng cao đẹp là sự kết tinh của tình bạn, tình người giữa những người lính nông dân trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp. Câu thơ “Đồng chí” như một bản lề gắn kết tự nhiên, khéo léo giữa hai phần của bài thơ: khép lại phần giải thích cội nguồn cao quý thiêng liêng của tình đồng chí và mở ra những biểu hiện cao đẹp hơn của tình đồng chí.

=> Tóm lại, bảy câu thơ đầu, đã đi sâu khám phá, lí giải cơ sở của tình đồng chí. Đồng thời, tác giả đã cho thấy sự biến đổi kì diệu từ những người nông dân hoàn toàn xa lạ trở thành những người đồng chí, đồng đội sống chết có nhau.

Đoạn 2. Mười câu thơ tiếp: Những biểu hiện của tình đồng chí

1. Biểu hiện thứ nhất: Họ thấu hiểu những tâm tư, nỗi lòng của nhau:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”

- Trước hết, họ thấu hiểu cảnh ngộ, mối bận lòng của nhau về chốn quê nhà:

+ Đó là một hoàn cảnh còn nhiều khó khăn: neo người, thiếu sức lao động. Các anh ra đi đánh giặc, để lại nơi hậu phương bộn bề công việc đồng áng, phải nhờ người thân giúp đỡ.

+ Cuộc sống gia đình các anh vốn đã nghèo khó, nay càng thêm thiếu thốn. Hình ảnh “gian nhà không”, diễn tả được cái nghèo về mặt vật chất trong cuộc sống gia đình các anh. Đồng thời, diễn tả sự thiếu vắng các anh- người trụ cột trong gia đình các anh

- Tiếp theo, họ thấu hiểu lí tưởng và ý chí lên đường để giải phóng cho quê hương, dân tộc.

+ “Ruộng nương”, “căn nhà” là những tài sản quí giá, gần gũi gắn bó, vậy mà họ sẵn sàng bỏ lại nơi hậu phương, hi sinh hạnh phúc riêng tư vì lợi ích chung, vì độc lập tự do của toàn dân tộc

+ Tác giả đã sử dụng những từ ngữ rất giản dị, mộc mạc nhưng giàu sức gợi: Từ “mặc kệ”, chỉ thái độ dứt khoát, quyết tâm của người lính. Mặc kệ những gì quí giá nhất, thân thiết nhất để ra đi vì nghĩa lớn. Đồng thời, thể hiện thái độ sẵn sàng hi sinh một cách thầm lặng của các anh vì đất nước.

- Họ thấu hiểu nỗi nhớ quê nhà luôn đau đáu, thường trực trong tâm hồn người lính

+ Họ ra đi để lại một trời thương nhớ. Nhớ nhà, nhớ quê và trên hết là nỗi nhớ những người thân. Những người lính đã dùng lí trí để trí ngự tình cảm, nhưng càng chế ngự thì nỗi nhớ nhúng càng trở nên da diết.

+ Hình ảnh “giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” vừa được sử dụng như một hình ảnh ẩn dụ, vừa được sử dụng như một phép nhân hóa diễn tả một cách tự nhiên và tinh tế tâm hồn người lính.

+ “ Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” hay chính là tấm lòng của người ra lính luôn canh cánh nỗi nhớ quê hương và do đó họ như đã tạo cho “giếng nước gốc đa” một tâm hồn.

=> Hình tượng người lính thời kì đầu của kháng chiến chống Pháp đã hiện lên tràn dầy khí thế và ý chí kiên cường, quyết ra đi bảo vệ độc lập, tự do của Tổ Quốc.

2. Biểu hiện thứ 2: Những người lính đã đồng cam cộng khổ trong cuộc đời quân ngũ

Chính Hữu là người trực tiếp tham gia chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947. Hơn ai khác, ông thấu hiểu những thiếu thốn và gian khổ của cuộc đời người lính. Bảy dòng thơ tiếp, ông đã dành để nói về những gian khổ của các anh bộ đội thời kì đầu cuộc kháng chiến chống pháp:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày”

- Bằng bút pháp miêu tả hết sức chân thực, hình ảnh thơ chọn lọc, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh hiện thực sống động về người lính với sự đồng cảm sâu sắc. Trước hết là những cơn sốt rét rừng:

+ Tác giả sử dụng bút pháp tả thực để tái hiện sự khắc nghiệt của những cơn sốt rét rừng đang tàn phá cơ thể những người lính.

+ Trong những cơn sốt rét ấy, sự lo lắng, quan tâm giữa những người lính đã trở thành điểm tựa vững chắc để họ vượt qua những khoa khăn, gian khổ.

- Cuộc đời quân ngũ đầy thiếu thốn, gian khổ:

+ Sử dụng thủ pháp liệt kê để miêu tả một cách cụ thể và chính xác những thiếu thốn của người lính: “áo rách vai, quần vài mảnh, chân không giày”. Đó là những chi tiết rất thật, được chắt lọc từ thực tế cuộc sống người lính.

+ Những khó khăn gian khổ như được tô đậm khi tác giả đặt sự thiếu thốn bên cạnh sự khắc nghiệt của núi rừng: sự buốt giá của những đêm rừng hoang sương muối.

=> Đây là hình ảnh chân thực về những anh bộ đội thời kì đầu kháng chiến. Đầy những gian nan, thiếu thốn nhưng các anh vẫn xé rừng mà đi, đạp núi mà tiến.

- Song họ vẫn giữ được tinh thần lạc quan cách mạng: Hình ảnh “miệng cười buốt giá” cho thấy thái độ lạc quan, coi thường thử thách để vượt lên khó khăn và hoàn thành tốt nhiệm vụ.

- Tác giả đã tạo dựng những hình ảnh sóng đôi, đối xứng nhau để diễn tả sự gắn kết, đồng cảm giữa những người lính.

=> Cái hay của câu thơ là nói về cảnh ngộ của người này nhưng lại thấy được sâu sắc tấm lòng yêu thương người kia. Tình thương đó lặng lẽ mà thấm sâu vô hạn.

3. Biểu hiện thứ 3: Luôn sẵn sàng sẻ chia, yêu thương gắn bó

Tất cả những cảm xúc thiêng liêng được dồn nén trong hình ảnh thơ rất thực, rất cảm động, chứa đựng biết bao ý nghĩa:

“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

- Những cái bắt tay chất chứa biết bao yêu thương trìu mến. Rõ ràng, tác giả đã lấy sự thiếu thốn đến vô cùng về vật chất để tô đậm sự giàu sang vô cùng về tinh thần

- Những cái bắt tay là lời động viên chân thành, để những người lính cùng nhau vượt qua những khó khăn, thiếu thốn.

- Những cái bắt tay của sự cảm thông, mang hơi ấm truyền cho nhau thêm sức mạnh.

- Đó còn là lời hứa lập công, của ý chí quyết tâm chiến đấu và chiến thắng quân thù.

=> Có lẽ không ngôn từ nào có thể diễn tả cho hết tình đồng chí thiêng liêng ấy. Chính những tình cảm, tình đoàn kết gắn bó đã nâng bước chân người lính và sưởi ấm tâm hồn họ trên mọi nẻo đường chiến đấu.

Đoạn 3. Ba câu thơ cuối: Sức mạnh và vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội

- Được xây dựng trên nền thời gian và không gian vô cùng đặc biệt:

“Đêm nay rừng hoang sương muối”

+ Thời gian: Một đêm phục kích giặc

+ Không gian: Căng thẳng, trong một khu rừng hoang vắng lặng và phr đầy sương muối.

- Trên nền hiện thực khắc nghiệt ấy, những người lính xuất hiện trong tâm thế:

“Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”

+ Hình ảnh “đứng cạnh bên nhau” cho thấy tư thế chủ động, hiên ngang, sẵn sàng chiến đấu của người lính.

- Kết thúc bài thơ là một hình ảnh độc đáo, là điểm sáng của một bức tranh về tình đồng chí, rất thực và cũng rất lãng mạn: Đầu súng trăng treo.

+ Chất hiện thực: gợi những đêm hành quân, phục kích chờ giặc, nhìn từ xa, vầng trăng như hạ thấp ngang trời. Trong tầm ngắm, người lính đã phát hiện một điều thú vị và bất ngờ: Trăng lơ lửng như treo đầu mũi súng.

+ Chất lãng mạn: Giữa không gian căng thẳng, khắc nghiệt đang sẵn sàng giết giặc mà lại “treo” một vầng trăng lung linh. Chữ “treo” ở đây rất thơ mộng. nối liền mặt đất với bầu trời.

+ Hình ảnh “đầu súng trăng treo” rất giàu ý nghĩa: Súng là biểu tượng cho cuộc chiến đấu, trăng biểu tượng cho non nước thanh bình, súng và trăng cùng đặt trên một bình diện đã gợi cho người đọc bao liên tưởng phong phú: chiến tranh và hòa bình, hiện thực và ảo mộng; khắc nghiệt và lãng mạn; chất chiến sĩ- vẻ đẹp tâm hồn thi sĩ. Gợi lên vẻ đẹp của tình đồng chí, giúp tâm hồn người chiến sĩ bay lên giữa cam go khốc liệt. Gợi vẻ đẹp của tâm hồn người lính: Trong chiến tranh ác liệt, họ vẫn rất yêu đời và luôn hướng về một tương lai tươi sáng.

=> Hình ảnh “đầu súng trăng treo” xứng đáng trở thành biểu tượng cho thơ ca kháng chiến: một nền thơ ca có sự kết hợp giữa chất hiện thực và cảm hứng lãng mạn.

Đánh giá về nghệ thuật: Với thể thơ tự do, ngôn ngữ thơ mộc mạc giản dị, chi tiết, hình ảnh chân thực cô đọng, hàm súc nhưng giàu sức biểu cảm, bài thơ Đồng chí đã để lại những ấn tượng sâu sắc về tình đồng chí, đồng đội và chân dung anh bộ đội Cụ Hồ thời kì kháng chiến chống Pháp: chân thực, giản dị mà vô cùng cao đẹp.

C. Kết bài

Đồng chí! Đọc xong bài thơ trong mỗi chúng ta đều lắng lại những cảm xúc dạt dào. Chúng ta đã cảm nhận được mối tình đồng chí đậm đà ấy qua những lời thơ nhẹ nhàng tha thiết như bài hát tâm tình của Chính Hữu. Cuộc kháng chiến chống Pháp đã thắng lợi vẻ vang, trang sử vàng đã sang qua bao nhiêu giai đoạn mới, thế nhưng mỗi lần đọc lại bài thơ Đồng chí ta như thấy rõ hình ảnh của ảnh bộ đội Cụ Hồ hiện lên sáng rực thật cao đẹp, thật thân thương trong những lời thơ của Chính Hữu.

phan-tich-ngu-van-9(1).jpg

Viết đoạn văn 1000 từ phân tích bài thơ Đồng chí ngắn gọn

1. Bài thơ Đồng chí như một định nghĩa bằng thơ về hai chữ Đồng chí, là bài ca về tình đồng chí của những người lính cách mạng, Hãy chứng minh.

Bài thơ Đồng chí như một định nghĩa bằng thơ về hai chữ “Đồng chí" là bài ca về tình đồng chí của những người lính cách mạng.

Bảy câu thơ đầu lí giải cơ sở hình thành nên tình đồng chí. Hai câu đầu giới thiệu quê hương của "anh” và “tôi", những người lính xuất thân từ nông dân “anh” ở nơi “nước mặn đồng chua” là nơi vùng ven biển, đất khó làm ăn; “tôi” ở vùng đồi núi trung du "đất cày lên sỏi đá”- đất khó canh tác. Ra đi từ những vùng quê khác nhau nhưng các anh đều chung cái nghèo. Sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân nghèo khó là cơ sở đồng cảm giai cấp của những người lính.

Chính điều đó khiến họ từ những phương trời “xa lạ” tập hợp lại trong hàng ngũ quân đội cách mạng và trở nên gắn bó. “Súng bên súng, đầu sát bên đầu” là hình ảnh sinh động, gợi cảm về mối tình gắn bó của những con người chung một lí tưởng, sát cánh chiến đấu vì độc lập tự do của Tố quốc.

Sống trong quân ngũ, tình cảm của các anh nảy nở và ngày càng gắn bó. “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. Câu thơ đầy ắp ki niệm và ấm áp tình đồng đội.

Từ sự sóng đôi của “anh” và “tôi” trong từng dòng thơ đến sự gần gũi “anh với tôi” trong một câu thơ và đến “đôi tri kỉ” - là một tình bạn keo sơn, gắn bó và cao hơn nữa là “Đồng chí!”. Từ rời rạc, riêng lẻ, dần nhập thành chung, thành một, khăng khít, khó tách rời. Câu thơ thứ bảy chỉ gồm hai chữ “Đồng chí” và dấu (!) tạo một nốt nhấn, nó vang lên như một sự phát hiện, một lời khẳng định, một tiếng gọi thiết tha, ấm áp, xúc động, lắng đọng trong lòng người về hai tiếng mới mẻ, thiêng liêng đó. Đồng thời, câu thơ như một bản lề gắn kết hai đoạn thơ, làm nổi rõ một tất yếu, một kết luận: cùng hoàn cảnh xuất thân, cùng lí tưởng thì trở thành đồng chí của nhau và mở ra ý tiếp: Đồng chí còn là như thế nào nữa?

Mười câu thơ tiếp nói về những biểu hiện cụ thể, cao đẹp của tình đồng chí, đồng đội.

Những đêm rét chung chăn, tấm chăn khép lại đã mở ra biết bao tâm tình của những người đồng đội. Họ thấu hiểu và chia sẻ với nhau mọi tâm tư nỗi niềm. Mỗi người lính đã để lại những gì quý giá, thân thiết nhất nơi làng quê (ruộng nương, gian nhà) để ra đi chiến đấu.

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay.

Hai chữ “mặc kệ" nói được cái dứt khoát, mạnh mẽ, quyết ra đi, nhưng người lính vẫn nặng lòng gắn bó với làng quê thân yêu. Nói “gian nhà không" vừa gợi gian nhà nghèo nàn, xơ xác, vừa gợi cá cái trống trải của ngôi nhà, của lòng người ở lại khi người đàn ông ra trận. Nói “mặc kệ" mà không dửng dưng, vô tình. Các anh hiểu rõ lòng nhau và hiểu cả nỗi niềm của người thân của nhau nơi hậu phương: “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính. Cách nói tế nhị hợp với tâm hồn người lính nông dân vốn kín đáo trong tình cảm. Câu thơ nói quê hương nhớ người lính mà thực ra là nói người lính nhớ nhà. Nỗi nhớ hai chiều nên càng da diết.

Tình đồng chí đã đem đến cho các anh những tình cảm mới mẻ, vượt lên phạm vi gia đình, làng xóm, quê hương, nâng người chiến sĩ lên trong tình đồng đội, tình giai cấp, lớn hơn là tình yêu nước. Tình cảm ấy khiến họ càng xích lại gần nhau hơn trong cuộc đời người lính biết bao gian khổ.

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

Họ nhìn thấu và thương nhau từ những chi tiết nhỏ của đời sống. Họ cùng chịu bệnh tật, những cơn sốt rét rừng ghê gớm, cùng thiếu, cùng rách. Đây là hoàn cảnh chung của bộ đội ta những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Hình ảnh thơ chân thực, xúc động, gợi tả. Để diễn tả sự gắn bó, chia sẻ giống nhau trong mọi cảnh ngộ của người lính. Tác giả xây dựng những cặp câu sóng đôi, đôi ứng nhau (từng cặp hoặc trong từng câu). Đáng chú ý là người lính bao giờ cũng nhìn bạn, nói về bạn trước khi nói mình, chữ “anh” bao giờ cũng xuất hiện trước chừ “tôi”. Cách nói ấy phải chăng thể hiện nét đẹp trong tình cảm: thương người như thể thương thân, trọng người hơn trọng mình. Chính tình đồng đội làm ấm người chiến sĩ, để họ vẫn cười trong buốt giá và vượt lên buốt giá. Cảm động nhất là cử chỉ: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Những bàn tay như biết nói, đã nói lên bao tình cảm ấm áp, đắm sâu, lặng lẽ mà thấm thía. Nắm lấy bàn tay nhau để ấm đôi bàn chân, để trụ vững trước mọi gian lao, thiếu thốn. “Đồng cam cộng khổ” khiến tình đồng chí thêm sâu dày để cùng đi tới chiều cao: cùng sát cánh chiến đấu.

Ba câu cuối nói lên biểu hiện cao đẹp nhất của tình đồng chí: cùng chung chiến hào. Tình đồng chí được tôi luyện trong thử thách gian lao và đây là thử thách lớn nhất. Ba câu thơ như dựng lên bức tượng đài sừng sững về tình đồng chí, về người chiến sĩ. Trên cái nền hùng vĩ, khắc nghiệt của thiên nhiên: đêm - rừng hoang - sương muối, người chiên sĩ “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Hình ảnh họ sát cánh bên nhau vững chãi tràn đầy khí thế lạc quan, làm mờ đi cái gian khổ, ác liệt của cuộc chiến đấu, tạo nên tư thế thành đồng vách sắt trước quân thù. Chính ở nơi sự sống và cái chết chỉ kề nhau tích tắc này cũng là nơi thử thách và bộc lộ tình đồng chí thiêng liêng, cao đẹp và phẩm chất anh hùng của người chiến sĩ. Hình ảnh họ khắc đậm lại, tượng hình lại trong chi tiết bất ngờ, độc đáo: “Đầu súng trăng treo”. Rất thực và cũng rật lãng mạn. Trong những đêm phục kích giặc giữa rừng khuya, người lính còn có thêm người bạn nữa là vầng trăng, trăng trôi trên nền trời, nhìn lên, trăng như treo trên đầu ngọn súng. Nhịp 2/2 gợi lên như nhịp lắc của một cái gì chung chiêng, lơ lửng trong sự bát ngát, chứ không phải là buộc chặt. Súng và trăng cũng thành một cặp đồng chí tô đậm vẻ đẹp của cặp đồng chí kia. Bên đồng đội, tâm hồn người chiến sĩ vẫn bình thản và lãng mạn ngay cả giữa nguy hiểm, gian lao. Hình ảnh thơ gợi nhiều liên tưởng. Súng: hình ảnh của chiến tranh, khói lửa; trăng: hình ảnh của thiên nhiên trong mát, cuộc sống thanh bình. Sự hoà hợp giữa súng và trăng vừa toát lên vẻ đẹp tâm hồn người lính và tình đồng chí của họ, vừa nói lên ý nghĩa cao cả của cuộc chiến tranh yêu nước. Người lính cầm súng là để bảo vệ cuộc sống hoà bình, hạnh phúc, độc lập, tự do cho Tổ quốc. Súng và trăng, thực và mộng, chất chiến đấu và chất trữ tình, chiến sĩ và thi sĩ,... đó là các mặt bổ sung cho nhau của cuộc đời người lính cách mạng, làm nên vẻ đẹp của tình đồng chí.

2. Phân tích biểu tượng của hình ảnh: đầu súng trăng treo trong Đồng chí - Chính Hữu và hình ảnh ánh trăng trong Ánh trăng - Nguyễn Duy.

Hình ảnh “đầu súng trăng treo” trong thơ Chính Hữu:

“Đầu súng trăng treo” là câu kết bài thơ Đồng chí. cũng là một biểu tượng đẹp về người chiến sĩ thời kì đầu kháng chiến chống Pháp.

Trong đêm phục kích giữa rừng, bên cạnh hình ảnh thực là súng, là nhiệm vụ chiến đấu tạo nên con người chiến sĩ thì cái mộng, cái trữ tình là trăng.

Hình ảnh trăng tạo nên con người thi sĩ. Hình ảnh chiến sĩ, thi sĩ hài hòa với nhau trong cuộc đời người lính cách mạng.

Hai hình ảnh tưởng là đốì lập nhau đặt cạnh nhau tạo ra ý nghĩa hòa hợp vô cùng độc đáo. Súng là chiến đấu gian khổ, hi sinh, là hiện thực. Còn trăng là tượng trưng cho hòa bình, gợi lên sự đẹp đẽ thơ mộng, dịu dàng và lãng mạn.

Người lính cầm súng để bảo vệ hòa bình, khát khao hòa bình, không ngại gian khổ hi sinh. Súng và trăng: cứng rắn và dịu hiền, chiến sĩ và thi sĩ, có người còn gọi đây là một cặp đồng chí.

Chính Hữu đã thành công với hình ảnh “đầu súng trăng treo” - một biểu tượng thơ giàu sức gợi cảm.

“Đầu súng trăng treo” đã trở thành một biểu tượng đẹp của người lính cách mạng Việt Nam hiện thực và lãng mạn, chiến sĩ và thi sĩ.

Hình ảnh “ánh trăng” của Nguyễn Duy:

Ánh trăng của Nguyễn Duy không chỉ là vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước mà còn gắn bó với tuổi thơ, với những ngày kháng chiến gian khổ.

Hình ảnh “ánh trăng” bắt đầu gắn với cuộc sống bình thường của con người và vầng trăng thời chiến tranh, vầng trăng là biểu tượng đẹp của những năm tháng tình nghĩa ngỡ không bao giờ quên.

Từ ở rừng, sau chiến thắng về thành phố, được sống cuộc sông tiện nghi: ở buyn-đinh, quen ánh điện, cửa gương... và vầng trăng tri kỉ tình nghĩa đã bị người tri kỉ xưa lãng quên, dửng dưng. Trăng được nhân hóa, lặng lẽ đi qua đường, như người dưng, chẳng còn ai nhớ, chẳng ai hay.

Bất ngờ gặp một tình huống của nhịp sống thành thị : thình lình đèn điện tắt. Vầng trăng xưa xuất hiện, vần tròn, vẫn đẹp, vẫn thủy chung với con người.

Cả một quá khứ đẹp và tình nghĩa ùa về rưng rưng trong lòng người lính, còn trăng thì im lặng.

Người lính giật mình, cái giật mình của người lính trước sự im lặng của trăng xưa hiện về nơi thành phố hôm nay là một biểu tượng nghệ thuật mang tính hàm nghĩa độc đáo. Đó là sự bao dung, độ lượng, nghĩa tình, thủy chung của nhân dân, sự trong sáng mà không hề đòi hỏi được đền đáp.

Đây chính là phẩm chất cao đẹp của nhân dân mà tác giả muốn ngợi ca tự hào. Cũng là thông điệp hãy biết nhớ về quá khứ tốt đẹp, không nên sống vô tình. Đó chính là ý nghĩa sâu sắc của hình ảnh trăng trong bài thơ của Nguyễn Duy tự nhắn nhủ mình và muốn gửi gắm.

3. Nêu những cảm nhận sâu sắc nhất của em về ba câu thơ cuối trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo

Ba câu thơ cuối của bài thơ vừa thể hiện tình đồng chí của người lính trong chiến đấu vừa gợi lên hình ảnh người lính rất đẹp, rất lãng mạn. Trong đêm sương muối rét buốt, những người lính phải đứng gác nơi rừng hoang. Trong thời tiết, hoàn cảnh khắc nghiệt, khó khăn như vậy, những người lính vẫn luôn sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng "chờ giặc tới". Trong cuộc kháng chiến gian khổ ấy, những người lính lại sát “cánh bên nhau, đứng cạnh bên nhau sẵn sàng chiến đấu, không quản ngại khó khăn gian khổ. Hình ảnh những người lính hiện lên rất chân thực, rất đẹp. Hình ảnh "đầu súng trăng treo" vừa là hình ành tả thực lại vừa mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Đêm đứng gác về khuya, trăng xuống thấp, những người lính lại đeo súng trên vai nên ta có cảm giác như trăng treo nơi đầu súng. Nhưng cây súng cũng là biểu tượng cho lực lượng chiến đấu bảo vệ hoà bình, trăng là biểu tượng cùa hoà bình. Hình ảnh "đầu súng trăng treo" là hình ảnh thơ đẹp và lãng mạn, thể hiện hình ảnh của người lính cách mạng, và qua đó cũng chính là thể hiện tình đồng chí, đồng đội của người lính cách mạng trong chiến đấu gian khổ.

4. Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính là hai bài thơ tiêu biểu viết về đề tài người lính cách mạng trong hai thời kỳ chống Pháp và chống Mĩ. So sánh hình ảnh người lính cách mạng ở hai bài thơ này

Là những nhà thơ quân đội trưởng thành trong những cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Chính Hữu và Phạm Tiến Duật từng sống, trải nghiệm và thấm thía đời sống của người lính trên chiến trường. Trên đôi bàn tay của hai nhà thơ không chỉ vững vàng những cây súng đánh giặc mà còn từng bung nở cho đời những vần thơ diệu kì về người lính. Hai trong số những áng thơ ấy là Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Cùng khắc họa hình ảnh người lính trong lực lượng quân đội nhân dân Việt Nam nhưng bên cạnh những điểm chung vốn dễ nhận thấy, ở hai bài thơ, mỗi bài lại có những nét đẹp riêng.

Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu ra đời năm 1948, những năm tháng đầu tiên của cuộc kháng chiến chống Pháp đầy vất vả, chính quyền ta vừa thành lập còn non trẻ. Những người lính của “Đồng chí” là những người lính chống Pháp, họ đến với kháng chiến từ màu áo nâu của người nông dân, từ cái nghèo khó của những miền quê lam lũ:

“Quê hương anh nựớc mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”…

Còn Bài thơ vê tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật ra đời năm 1969, thời điểm cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đang vào hồi ác liệt. Những người lính thời kì này còn rất trẻ. Họ phần lớn vừa rời ghế nhà trường, tâm hồn còn phơi phới tuổi xuân. Đó là những con người:

“Xẻ dọc Trường Sơn đi đánh Mĩ

Mà lòng phơi phới dậy tương lai”.

Hoàn cảnh, điều kiện khác nhau như vậy tất yếu dẫn đến sự khác nhau về ý thức giác ngộ cách mạng của những người lính ở hai bài thơ. Nhận thức về chiến tranh của những người lính chống Pháp còn đơn giản, chưa sâu sắc như thời kì kháng chiến chống Mĩ. Trong “Đồng chí”, tình cảm thiêng liêng nhất được nhắc tới là tình đồng chí, đồng đội. Trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” mới thấy xuất hiện ý niệm về ý chí, tinh thần yêu nước:

“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cẩn trong xe có một trái tim”.

Sống giữa chiến trường với tình đồng đội thiêng liêng, người lính chống Pháp nhớ về gia đình với mẹ già, vợ dại, con thơ. Người lính kháng Mĩ thì đã khác. Họ hiểu rằng kháng chiến là gian khổ và còn trường kì nữa. Vậy nên xe hàng cùng con đường ra mặt trận đã trở thành ngôi nhà chung và những người đồng đội đã trở thành gia đình ruột thịt:

“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”.

Và điều khác nhau cơ bản giữa hai thi phẩm chính là bút pháp thơ của hai tác giả. Chính Hữu dùng bút pháp hiện thực - lãng mạn dựng lên hình ảnh những người lính thời kì đầu của cuộc kháng chiến với nhiều khó khăn thiếu thốn:

"Áo anh rách vai quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá chân không giày”

Cảm hứng lãng mạn được lắng đọng trong cảm xúc về tình đồng chí thiêng liêng: “Đồng chí!” cùng những hình ảnh thơ giàu sức gợi “đẩu súng trăng treo”. Bài thơ “Bài thơ về tiểu dội xe không kính” lại được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn - hiện thực. Cái khó khăn thiếu thốn không bị lảng tránh:

“Không có kính rồi xe không có đèn,

Không có mui xe thùng xe có xước”.

Nhưng vượt lên trên tất cả vẫn là sự ngang tàng, tinh nghịch của những người lính trẻ lạc quan yêu đời:

"Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng”

“ừ thì gió bụi”

“ừ thì ướt áo”,...

Có thể nói, trong “Đồng chí” của Chính Hữu, nhà thơ đã dựng lên hình ảnh người lính với tình đồng đội thiêng liêng chia sẻ với nhau những khó khăn, cực nhọc của một cuộc sống kháng chiến gian nan, thiếu thốn. Bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật lại khắc họa tuổi trẻ trẻ trung, yêu đời, yêu sống tinh nghịch và đầy ước mơ, lí tưởng của những người lính chống Mĩ.

Tuy có những sự khác nhau do hoàn cảnh lịch sử chi phối như vậy song những người lính trong hai bài thơ vẫn mang những đặc điểm chung đáng quý của người lính quân đội nhân dân. Đó là tấm lòng yêu nước, yêu đồng chí, đồng đội.

Vì tiếng gọi của non sông tất cả đã bỏ lại phía sau những “bến nước gốc đa”, những con phố, căn nhà và cả những người thân yêu nhất. Trong điều kiện chiến đấu vô cùng gian khổ thiếu thốn, thì tinh thần chiến đấu của những người lính lại bùng lên mạnh mẽ, sục sôi khí thế. Họ không nề nguy hiểm, khó khăn, vẫn vững lòng cầm chắc tay súng để bảo vệ quê hương, đất nước:

“Súng bên súng đầu sát bên đầu”

“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim”.

Họ cũng sát cùng bên nhau, bên những người đồng đội để cùng chiến đấu dũng cảm. Nếu trong “Đồng chí” là:

“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

Thì trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính hình ảnh đó đã trở nên thân quen:

“Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”

Không kể thiếu thốn, khó khăn, họ vẫn chấp nhận, vẫn vui vẻ lạc quan, yêu đời hơn. Cái bắt tay ấy là cả một tình đồng đội thiêng liêng, họ truyền cho nhau niềm tin chiến thắng, tình yêu và lòng dũng cảm ấy. Sống và chết, dường như trong tim mỗi người lính chiến đấu không hề có khái niệm ấy.

Dù có những điểm giống và khác nhau rõ rệt nhưng điều đó càng khiến những người lính cụ Hồ hiện lên qua nhiều màu vẻ, sinh động và gần gũi. Điều đó trước hết giúp người đọc càng hiểu rõ hơn về những người lính. Hình ảnh của họ hiện lên thật đẹp đẽ, họ chính là biểu tượng, là niềm tin, khát vọng của nhân dân gửi gắm nơi họ. Ở các anh, người đọc nhận thấy một ánh sáng lí tưởng cao đẹp và thiêng liêng vô cùng. Không chỉ vậy, những nét khác biệt còn thể hiện từng phong cách riêng của mỗi tác giả trong phương thức thể hiện. Điều đó làm giàu, làm đẹp thêm cho vườn hoa nghệ thuật nước nhà.

5. Viết đoạn văn nêu những cảm nhận của em về hai tiếng đồng chí trong bài thơ cùng tên của Chính Hữu

Trong bài thơ "Đồng chí" của Chính Hữu, hai tiếng "đồng chí" vang lên thật thiết tha, cảm động. Đồng chí là cùng chung ý chí, lí tưởng. Đồng thời nó cũng là cách xưng hô của những người trong cùng một đoàn thể cách mạng. Với nhan đề Đồng chí, bài thơ đã nói lên được bản chất cách mạng của tình đồng đội, đồng thời cũng nói lên ý nghĩa sâu sắc của tình đồng đội. Câu thơ thứ bảy trong bài thơ cũng chỉ gồm hai tiếng: "Đồng chí". Nếu không kể nhan đề thì đây là lần duy nhất hai tiếng "đồng chí" xuất hiện trong bài thơ, làm thành riêng một câu thơ. Câu này có ý nghĩa quan trọng trong bố cục của toàn bài. Nó đánh dấu một mốc mới trong mạch cảm xúc và bao hàm những ý nghĩa sâu xa. Sáu câu thơ đầu là tình đồng đội tri kỉ, đến đây được nâng lên thành tình đồng chí thiêng liêng. Đồng chí nghĩa là không chỉ có sự gắn bó thân tình mà còn là cùng chung chí hướng cao cả. Những người đồng chí- chiến sĩ hoà mình trong mối giao cảm lớn lao của cả dân tộc. Gọi nhau là đồng chí thì nghĩa là đồng thời với tư cách họ là những con người cụ thể, là những cá thể, họ còn có tư cách quân nhân, tư cách của "một cây" trong sự giao kết của "rừng cây”, nghĩa là từng người không chỉ là riêng mình. Hai tiếng đồng chí vừa giản dị, thân mật lại vừa cao quý, lớn lao là vì thế.

6. Viết đoạn văn trình bày cảm nhận đoạn cuối bài thơ "Đồng chí"

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo

Ba câu thơ cuối của bài thơ vừa thể hiện tình đồng chí của người lính trong chiến đấu vừa gợi lên hình ảnh người lính rất đẹp, rất lãng mạn. Trong đêm sương muối rét buốt, những người lính phải đứng gác nơi rừng hoang. Trong thời tiết, hoàn cảnh khắc nghiệt, khó khăn như vậy, những người lính vẫn luôn sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng "chờ giặc tới". Trong cuộc kháng chiến gian khổ ấy, những người lính lại sát cánh bên nhau, đứng cạnh bên nhau sẵn sàng chiến đấu, không quản ngại khó khăn gian khổ. Hình ảnh những người lính hiện lên rất chân thực, rất đẹp. Hình ảnh "đầu súng trăng treo" vừa là hình ảnh tả thực lại vừa mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Đêm đứng gác về khuya, trăng xuống thấp, những người lính lại đeo súng trên vai nên ta có cảm giác như trăng treo nơi đầu súng. Nhưng cây súng cũng là biểu tượng cho lực lượng chiến đấu bảo vệ hòa bình, trăng là biểu tượng cùa hòa bình. Hình ảnh "đầu súng trăng treo" là hình ảnh thơ đẹp và lãng mạn, thể hiện hình ảnh của người lính cách mạng, và qua đó cũng chính là thể hiện tình đồng chí, đồng đội của người lính cách mạng trong chiến đấu gian khổ.

7. Viết đoạn văn nêu cảm nhận của em về 7 câu thơ đầu bài thơ "Đồng chí" - Chính Hữu

Ngay từ những câu thơ mở đầu bài thơ “Đồng chí”, Chính Hữu đã lí giải những cơ sở hình thành tình đồng chí thắm thiết, sâu nặng của “anh” và “tôi” – của những người lính cách mạng:

Quê hương anh nước mặn, đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.

Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,

Súng bên súng, đầu sát bên đầu,

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.

Đồng chí!

Thành ngữ “nước mặn đồng chua” và hình ảnh “đất cày lên sỏi đá”, giọng điệu thủ thỉ tâm tình như lời kể chuyện, cùng nghệ thuật sóng đôi, tác giả cho thấy tình đồng chí, đồng đội bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng cùng cảnh ngộ. Họ là những người nông dân áo vải, ra đi từ những miền quê nghèo khó – miền biển nước mặn, vùng đồi núi trung du. Không hẹn mà nên, những người nông dân ấy gặp nhau tại một điểm: lòng yêu nước. Tình yêu quê hương, gia đình, nghĩa vụ công dân thúc giục họ lên đường chiến đấu. Bởi thế nên từ những phương trời xa lạ, mọi người “chẳng hẹn mà quen nhau”. Giống như những anh lính trong bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên: ”Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ - Gặp nhau từ hồi chưa biết chữ - Quen nhau từ buổi “một, hai” – Súng bắn chưa quen – Quân sự mươi bài – Lòng vẫn cười vui kháng chiến”. Trong môi trường quân đội, đơn vị thay cho mái ấm gia đinh, tình đồng đội thay cho tình máu thịt. Cái xa lạ ban đầu nhanh chóng bị xóa đi. Sát cánh bên nhau chiến đấu, càng ngày họ càng cảm nhận sâu sắc về sự hòa hợp, gắn bó giữa đồng đội cùng chung nhiệm vụ và lí tưởng cao đẹp: “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”. Hình ảnh sóng đôi, các điệp từ “súng”, ”đầu”, giọng điệu thơ trở nên tha thiết, trầm lắng như nhấn mạnh tình cảm gắn bó của người lính trong chiến đấu. Họ đồng tâm, đồng lòng, cùng nhau ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước, quê hương, giữ gìn nền độc lập, tự do, sự sống còn của dân tộc – “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Và chính sự đồng cảnh, đồng cảm và hiểu nhau đã giúp các anh gắn bó với nhau, cùng sẻ chia mọi gian lao thiếu thốn của cuộc đời người lính: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. Từ gian khó, hiểm nguy, tình cảm trong họ đã nảy nở và họ đã trở thành những người bạn tâm giao, tri kỉ, hiểu nhau sâu sắc, gắn bó thành đồng chí. Hai tiếng “Đồng chí” kết thúc khổ thơ thật đặc biệt, sâu lắng! Nó như một nốt nhạc làm bừng sáng cả đoạn thơ, là điểm hội tụ, nơi kết tinh của bao tình cảm đẹp mà chỉ có ở thời đại mới: tình giai cấp, tình đồng đội, tình bạn bè trong chiến tranh.

8. Viết đoạn văn nêu cảm nghĩ về tình đồng chí

Trong bài thơ "Đồng chí" của Chính Hữu, hai tiếng "đồng chí" vang lên thật thiết tha, cảm động. Đồng chí là cùng chung ý chí, lí tưởng. Đồng thời nó cũng là cách xưng hô của những người trong cùng một đoàn thể cách mạng. Với nhan đề Đồng chí, bài thơ đã nói lên được bản chất cách mạng của tình đồng đội, đồng thời cũng nói lên ý nghĩa sâu sắc của tình đồng đội. Câu thơ thứ bảy trong bài thơ cũng chỉ gồm hai tiếng: "Đồng chí". Nếu không kể nhan đề thì đây là lần duy nhất hai tiếng "đồng chí" xuất hiện trong bài thơ, làm thành riêng một câu thơ. Câu này có ý nghĩa quan trọng trong bố cục của toàn bài. Nó đánh dấu một mốc mới trong mạch cảm xúc và bao hàm những ý nghĩa sâu xa. Sáu câu thơ đầu là tình đồng đội tri kỉ, đến đây được nâng lên thành tình đồng chí thiêng liêng. Đồng chí nghĩa là không chỉ có sự gắn bó thân tình mà còn là cùng chung chí hướng cao cả. Những người đồng chí- chiến sĩ hoà mình trong mối giao cảm lớn lao của cả dân tộc. Gọi nhau là đồng chí thì nghĩa là đồng thời với tư cách họ là những con người cụ thể, là những cá thể, họ còn có tư cách quân nhân, tư cách của "một cây" trong sự giao kết của "rừng cây”, nghĩa là từng người không chỉ là riêng mình. Hai tiếng đồng chí vừa giản dị, thân mật lại vừa cao quý, lớn lao là vì thế.

9. Qua bài thơ "Đồng chí" hãy viết đoạn văn nêu cảm nhận của em về hình ảnh người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp

Hình tượng người lính đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho các sáng tác nghệ thuật. Đối với Chính Hữu, tác giả lại có sự cảm nhận riêng về hình tượng người lính. Chính Hữu thể hiện cơ sở hình thành tình đồng chí tới những biểu hiện cảm động nghĩa tình của những người lính dành cho nhau. Thời kì kháng chiến chống Pháp, những người lính đã phải đối mặt với nhìn khó khăn thử thách, thiếu thốn về vật chất "Áo anh rách vai/ Quần tôi có vài mảnh vá". Nhưng vượt lên tất cả, đó là vẻ đẹp của tình đồng đội, đồng chí. Giữa khung cảnh lạnh lẽo, hoang vu của núi rừng Tây Bắc, những người lính đứng kề cạnh bên nhau xua đi cái lạnh nơi rừng thiêng nước độc. Chính nơi đó, ranh giới giữa sự sống và cái chết trở nên mong manh, thì những người lính càng trở nên mạnh mẽ, đoàn kết. Họ sát cánh bên nhau chủ động chờ giặc tạo nên tư thế thành đồng vách sắt trước quân thù. Hình ảnh cuối bài tỏa sáng với sự hòa kết hình ảnh súng - hình ảnh của khói lửa chiến tranh kết hợp với hình ảnh ánh trăng trong mát, thanh bình nói lên ý nghĩa cao cả của cuộc chiến tranh vệ quốc. Chỉ với ba câu thơ xúc động, chân thực nhưng cũng giàu sự lãng mạn, bức tranh về tình đồng chí của người lính đã hiện lên giàu chất thơ và ngời sáng vẻ đẹp của người lính cụ Hồ thời chống Pháp.

10. Viết đoạn văn phân tích biểu tượng của tình đồng chí

Bài thơ Đồng chí với những câu văn dung dị, mộc mạc nhưng đã toát lên vẻ đẹp sáng ngời về những người lính bộ độ cụ Hồ năm xưa. Họ xuất thân từ những miền quê khác nhau, bỏ lại sau lưng là ruộng đồng, gia đình để lên đường chiến đấu cho độc lập dân tộc. Gặp nhau nơi rừng thiêng nước độc, giữa tiếng đạn bom, giữa những hiểm nguy luôn rình rập, nhưng họ không hề lo sợ, nao núng tinh thần. Họ đã cùng nhau sống, chiến đấu và gắn bó thân thiết như anh em ruột thịt. Khổ thơ cuối khắc họa những biểu tượng cao đẹp về tình đồng chí:

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.

“Đầu súng trăng treo”, câu thơ ngắn gọn mà cô đọng những ý nghĩa sâu xa. Sự đối lập giữa hai hình ảnh súng và trăng, đối lấp giữa hiện tại chiến tranh ác liệt và khát vọng hòa bình tươi sáng. Giữa rừng khuya thanh vắng, các anh cùng sát bên nhau làm nhiệm vụ, ánh trăng trên cao như người bạn đồng hành cùng chiến đấu. Ánh trăng như giúp các anh tạm quên đi những ngày tháng chiến đấu vất vả, ánh trăng của khát khao hòa bình dân tộc, ánh trăng gợi nhớ về quê hương yên bình. Anh với tôi từ xa lạ mà thành thân quen, rồi sát cánh bên nhau những ngày chiến đấu, tình cảm nối lại thành tình đồng chí. Câu thơ cuối bài có ý nghĩa thật đẹp, là hình ảnh chan hòa giữa con người với thiên nhiên, đất nước, là khát vọng về ngày hòa bình của dân tộc. Ánh trăng cuối bài thơ như tỏa ánh sáng dịu dàng, soi rọi cho tình đồng chí gắn bó keo sơn.

Danh sách đề thi phân tích bài thơ Đồng chí của tác giả Chính Hữu

Đề 1: Phân tích bài thơ Đồng chí – Chính Hữu

Đề 2: Phân tích vẻ đẹp của bài thơ Đồng Chí (Chính Hữu)

Đề 3: Phân tích cảm nhận 7 câu đầu bài thơ Đồng chí – Chính Hữu

Đề 4: Trình bày cảm nhận của em về đoạn thơ sau: “Anh với tôi ... tay nắm lấy bàn tay" và "Không có kính không phải vì xe không có kính ... nhìn trời nhìn thẳng"

Đề 5: Cảm nhận của em về đoạn thơ sau: "Ruộng nương anh gửi .. tay nắm lấy bàn tay"

Đề 6: Có ý kiến cho rằng: Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu là một tượng đài tráng lệ, cao cả, thiêng liêng về người chiến sĩ trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Em hãy phân tích bài thơ để làm sáng tỏ ý kiến. ( *)

Đề 7: Phân tích vẻ đẹp của người lính qua hai bài thơ: “Đồng chí” và “Tiểu đội xe không kính”. ( *)

Đề 1: Phân tích bài thơ Đồng chí – Chính Hữu

Mở bài

Cuộc kháng chiên chống Pháp trường kì là điểm hội tụ của những người chiến sĩ có cùng nhiệt huyết chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc. Ở đó có hàng triệu trái tim yêu nước đã giã từ bờ tre, giếng nước của quê nhà ra đi đánh giặc. Cuộc sống vất vả, gian nan trong chiến đấu đã gắn kết họ lại với nhau trong tình đồng chí. Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu đã ghi lại tình cảm cao quí ấy của những người chiến sĩ một cách sâu sắc.

Thân bài

Lời thơ thật mộc mạc, tự nhiên như những lời tâm sự. Những thành ngữ đi vào trong thơ làm cho ta cảm giác như chính cuộc sống hàng ngày của người lính được hiện lên trước mắt ta vậy. Họ đến từ những miền quê khác nhau, người thì từ đồng bằng ven biển lên, kẻ thì từ vùng trung du xuống, nhưng họ đã dễ dàng gần gũi, thông cảm với nhau bởi cùng ra đi từ những vùng quê nghèo khó, vất vả

“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi ngèo đất cày sỏi đá”

Hai câu thơ mở đầu bằng lối cấu trúc song hành, đối xứng như làm hiện lên hai gương mặt người chiến sĩ. Họ như đang tâm sự cùng nhau. Giọng điệu tự nhiên, mộc mạc, đầy thân tình. “Quê anh” và “làng tôi” đều là những vùng đất nghèo, cằn cỗi, xác xơ, là nơi “nước mặn đồng chua” - vùng đồng bằng ven biển, là xứ sở của “đất cày lên sỏi đá” – vùng đồi núi trung du.

Tác giả đã mượn thành ngữ, tục ngữ để nói về làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn thân yêu của những người chiến sĩ. Điều ấy đã làm cho lời thơ mang đậm chất chân quê, dân dã đúng như con người vậy – những chàng trai dân cày chân đất, áo nâu lần đầu mặc áo lính lên đường ra trận! Như vậy, sự đồng cảnh, cùng chung giai cấp chính là cơ sở, là cái gốc hình thành nên tình đồng chí.

“Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Đồng chí!”

Đồng hoàn cảnh, chung lý tưởng đánh giặc cứu nước, các ạnh đã tham gia đội ngũ bộ đội kháng chiến. Cuộc kháng chiến chống Pháp trường kì của dân tộc chính là nơi hội tụ trái tim những người con yêu nước, đã đưa các anh từ lạ thành quen “anh với tôi đôi người xa lạ, tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”

Có lẽ chung cuộc sống chiến đấu gian khổ bên chiến hào vì độc lập tự do của dân tộc, đã từ khi nào các anh trở thành tri kỉ của nhau:

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”

Hai câu thơ vừa mang ý nghĩa tả thực vừa mang ý nghĩa biểu trưng. Câu thơ: “súng bên súng, đầu sát bên đầu” đã gợi lên tư thế của người lính trong đêm phục kích. Họ luôn sát cánh bên nhau trong mọi khó khăn, nguy hiểm. “Súng bên súng” là chung nhiệm vụ, chung hành động; “đầu sát bên đầu” là chung chí hướng, chung lí tưởng. Chính Hữu đã dung các từ “sát, bên, chung” gợi sự chia sẻ của người lính, ý hợp tâm giao. Hình ảnh “đêm rét chung chăn” là một hình ảnh đẹp, đầy ý nghĩa, đã cho ta thấy được sự sẻ chia những thiếu thốn gian lao trong cuộc đời người lính. Cũng sự sẻ chia ấy, Tố Hữu từng viết:

“Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”

Tấm chăn tuy mỏng nhưng ấm tình đồng chí, đồng đội mà người lính không thể nào quên. Nó đã vun đắp lên tình đồng chí của các anh, cái tình ấy ngày một thắm thiết, càng đậm sâu. Các anh giờ đây không chỉ là tri kỉ than thiết của nhau mà đẫ trở thành những người “đồng chí”.

“Đồng chí!” Là một câu đặc biệt như một bản lề khép mở: khép lại cơ sở hình thành tình đồng chí và mở ra biểu hiện sức mạnh của tình đồng chí. Nó như nốt nhấn trên bản đàn, buộc người đọc phải dừng lại suy nghĩ về ý nghĩa mà nó gợi ra. Đó là tiếng gọi thiêng liêng của những người có chung chí hướng lí tưởng vang lên từ sâu thẳm tâm hồn người lính. Tình đồng chí là đỉnh cao của tình bạn, tình người, là kết tinh của mọi tình cảm, là cội nguồn sức mạnh để người lính vượt qua những tháng ngày khó khăn gian khổ. Hai tiếng “đồng chí” đơn sơ mà cảm động đến nao lòng, làm bừng sang ý nghĩa của cả đoạn thơ và bài thơ.

Mười câu thơ tiếp theo vẫn là những câu thơ tự do, ngôn từ giản dị, mộc mạc cho người đọc thấy được biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí.

Trải qua những khó khắn nơi chiến trường, tình đồng chí đã giúp các anh có được sự cảm thông, thấu hiểu nỗi lòng, tình cảm của nhau .Những lúc ngồi cận kề bên nhau, các anh đã kể cho nhau nghe chuyện quê nhà đầy bâng khuâng, thương nhớ:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”

Ba câu thơ với giọng thủ thỉ tâm tình cùng những hình ảnh giản dị quen thuộc cho thấy những người lính vốn là những người nông dân quen chân lấm tay bùn, gắn bó với căn nhà thửa ruộng. Nhưng khi tổ quốc cần, các anh sẵn sàng từ bỏ những gì thân thuộc nhất để ra đi làm nhiệm vụ: ruộng nương gửi bạn thân cày, để mặc căn nhà trống trải đang cần người sửa mái “mặc kệ” vốn chỉ thái dộ thờ ơ vô tâm của con người, nhưng trong lời thơ của Chính Hữu lại thể hiện được sự quyết tâm của người lính khi ra đi. Các anh ra đi để lại tình yêu quê hương trrong tim mình, để nâng lên thành tình yêu Tổ quốc. Đó cũng là sự quyết tâm chung của cả dân tộc, của cả thời đại. Tuy quyết tâm ra đi nhưng trong sâu thẳm tâm hồn các anh, hình ảnh quê hương vẫn in đậm, vẫn hằn lên nỗi nhớ thân thương: “giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”. Hình ảnh hoán dụ cũng với nghệ thuật nhân hóa, Chính Hữu đã tạo ra nỗi nhớ hai chiều: quê hương – nơi có cha mẹ, dân làng luôn nhớ và đợi chờ các anh, các anh – những người lính luôn hướng về quê hương với bao tình cảm sâu nặng. Có lẽ chính nỗi nhớ ấy đã tiếp thêm cho các anh sức mạnh để các anh chiến đấu dành lại độc lập cho dân tộc.

Không chỉ thấu hiểu, cảm thông, các anh còn sẻ chia những thiếu thốn, gian lao và niềm vui bên chiến hào chiến đấu:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Rét run người vầng trán ướt mồ hôi

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

Đoạn thơ với bút pháp hiện thực, hình ảnh sóng đôi đối xứng “anh – tôi”, “áo anh – quần tôi” tạo được sự gắn kết của những người đồng chí luôn kề vai sát cánh, đồng cam cộng khổ bên nhau. Trong thiếu thốn, các anh đã cùng chia sẻ ốm đau bệnh tật, cũng trải qua những cơn sốt rét rừng ghê gớm, cùng chia sẻ những thiếu thốn về vật chất, bằng niềm lạc quan “miệng cười buốt giá”, bằng tình yêu thương gắn bó “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Hình ảnh “miệng cười buốt giá” gợi nụ cười lạc quan bừng lên trong giá lạnh xua tan đi sự khắc nghiệt của chiến trường. Các anh nắm tay nhau để chuyền cho nhau hơi ấm, để động viên nhau vượt qua khó khăn gian khổ. Thật hiếm khi thấy cái bắt tay nào nồng hậu đến vậy!

Chính Hữu bằng những nét vẻ giản dị mộc mạc đã vẽ lên bức tranh tuyệt đẹp ngay giữa một hoàn cảnh đầy khắc nghiệt: bức tranh người lính đứng gác giữa núi rừng biên giới trong đêm khuya:

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.”

Đêm nay cũng như bao đêm khác, các anh phục kích chờ giặc, chuẩn bị cho trận đánh giành thắng lợi cuối cùng trong chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, một đêm đã đi vào lịch sử khiến người lính không thể nào quên. Các anh phục kích chủ động chờ giặc trong hoàn cảnh đầy khắc nghiệt: “rừng hoang sương muối”

“Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Các anh chờ giặc tới là chờ giây phút hồi hộp căng thẳng khi ranh giới của sự sống cái chết rất mong manh. Từ “chờ” đã thể hiện được tư thế chủ động của người lính trong đêm phục kích cũng là tư thế chủ động của toàn dân ta sau chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947.

Khép lại bài thơ là hình ảnh tuyệt đẹp và thi vị, một phát hiện của người lính trong chính đêm phục kích của mình: “đầu súng trăng treo”. Câu thơ gợi từ hiện thực: đêm về khuya, người lính đứng gác trong tư thế chủ động, súng chĩa lên trời, trăng lên cao, ánh trăng trên đầu súng khiến các anh tưởng như trăng đang treo trên đầu súng của mình. Súng là biểu tương của cuộc chiến đấu đầy gián khổ, hi sinh mà người lính đang trải qua, trăng là biểu tượng của cuộc sống hòa bình trong tương lai mà người lính đang hướng tới. Súng là biểu tượng của người chiến sĩ, trăng là biểu tượng của thi sĩ. Súng – trăng là gần và xa, thực tại và mơ mộng, chất chiến đấu và chất trữ tình, chất chiến sĩ và chất thi sĩ, hiện thực và lãng mạn cũng tồn tại, bổ sung tô điểm cho vẻ đẹp cuộc đời người chiến sĩ. Ánh trăng dường như đang ngập tràn khắp núi rừng chiến khu, trên bầu trời và chiếu cả trong làn sương huyền ảo. Tâm hồn các anh, những người chiến sĩ cũng như ánh trăng ấy nồng hậu, lấp lánh ánh sáng lạc quan, luôn hướng về một ngày mai tươi sáng.

Như vậy, “Đồng chí” giống như một lời ca nhẹ nhàng trong trẻo về tình đồng chí đồng đội. Chính Hữu đã mang đến cho thơ ca cách mạng một giai điệu mới mẻ, một bức tranh đẹp về người lính chống Pháp. Nhà thơ đã khéo léo vận dụng ngôn ngữ bình dị, tự nhiên, những tục ngữ, thành ngữ dân gian làm cho lời thơ trở nên thi vị, mộc mạc, đi thẳng đến trái tim người đọc. Bên cạnh đó với những hình ảnh biểu trưng, những câu văn sóng đôi, ngòi bút hiện thực lãng mạn của ông đã tô điểm thêm vẻ đẹp sáng ngời của tình đồng chí.

Kết bài

Bài thơ kết thúc nhưng lại mở ra những suy nghĩ mới trong lòng người đọc. Bài thơ đã làm sống lại một thời khổ cực của cha anh ta, làm sống lại chiến tranh ác liệt. Bài thơ khơi gợi lại những kỉ niệm đẹp, những tình cảm tha thiết gắn bó yêu thương mà chỉ có những người đã từng là lính mới có thể hiểu và cảm nhận hết được.

Với nhiều hình ảnh chọn lọc, từ ngữ gợi cảm mà lại gần gũi thân thuộc, với biện pháp sóng đôi, đối ngữ được sử dụng rất thành công, Chính Hữu đã viết nên một bài ca với những ngôn từ chọn lọc, bình dị mà có sức ngân vang. Bài thơ đã ca ngợi tình đồng chí hết sức thiêng liêng, như là một ngọn lửa vẫn cháy mãi, bập bùng không bao giờ tắt, ngọn lửa thắp sáng đêm đen của chiến tranh.

Đề 2: Phân tích vẻ đẹp của bài thơ Đồng Chí (Chính Hữu)

Mở bài

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta đã chứng kiến bao kì tích của những người nông dân. Họ đã làm nên lịch sử từ đôi bàn tay cày cuốc, đôi bàn chân lấm lem bùn lầy. Họ là những chàng “Thạch Sanh của thế kỉ XX”. Đã có biết bao tiếng hát, lời thơ ca ngợi những anh hùng “chân đất” ấy. Là một chiến sĩ, đồng thời cũng là một nghệ sĩ, với bài thơ Đồng chí, Chính Hữu đã góp một bản hùng ca hoà vào bản đàn chung về những người lính anh dũng của một thời kháng chiến gian khổ mà hào hùng.

Thân bài

Năm hai mươi tuổi, Chính Hữu viết về người lính trong “Ngày về” nhưng ở bài thơ này hình ảnh người chiến sĩ hiện lên với nhiều nét ước lệ, với những thanh gươm, áo bào, đôi giày vạn dặm, khác xa lắm người lính trong cuộc chiến thực tại:

“Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm

Bụi trường chinh phui bạc áo hào hoa”

(Chính Hữu – Ngày về)

Ba năm sau (1948), khi tham gia vào hàng ngũ cách mạng, được trực tiếp trải nghiệm đời lính, được chứng kiến những mất mát, hi sinh, những khó khăn gian khổ, được sống trong tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn, Chính Hữu đã có cái nhìn, cách cảm nhận khác về người lính. Điều đó được thể hiện rõ trong bài thơ Đổng chí. Ngay từ khi mới ra đời, Đồng chí đã được đón nhận nồng nhiệt. Có thể coi đó là một trong những áng thơ đẹp nhất về người lính, vẻ đẹp của bài thơ chính là vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội được hiện lên qua những “chi tiết và hình ảnh tự nhiên, bình dị mà cô đọng, giàu sức biểu cảm” (SGK Ngữ văn 9, tập 1).

Mở đầu bài thơ là sự khái quát về cảnh ngộ của những người lính:

“Quê hương anh nước mặn, đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.”

Ngôn ngữ thơ giản dị như lời ăn tiếng nói thường ngày của người dân quê. Ta bắt gặp ở đây những thành ngữ quen thuộc “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”, thể hiện rõ nhất nguồn gốc xuất thân của những người lính. Họ đến từ mọi miển Tổ quốc, từ những vùng đồng bằng châu thổ quanh năm ngập lụt đến vùng đồi núi trung du khô cằn. Những con người xa lạ, cách nhau cả một phương trời nhưng giống nhau ở cái nghèo, sự lam lũ khó nhọc của người dân quê Việt Nam. Chính sự đồng cảnh ấy đã khiến họ xích lại gần nhau, để từ những “người xa lạ”, họ tập hợp lại trong hàng ngũ cách mạng và trở thành quen biết, thân thiết với nhau:

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu,

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.”

Những hình ảnh thơ rất thực nhưng cũng đầy sức gợi. Điệp từ “bên” cùng cấu trúc song hành có tác dụng khẳng định sự gắn bó khăng khít giữa những người lính. Họ cùng chung nhiệm vụ chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc “súng bên súng” (cùng chung lí tưởng, suy nghĩ – “đầu sát bên đầu”). “Cái hay của nhà thơ là đã biết đem cái ấm áp của “đêm rét chung chăn” vào bài thơ, sưởi nóng mối tình đồng chí lên thành mức độ tri kỉ”. Những người lính đến với nhau nhẹ nhàng bình dị, vừa có cái chung của lí tưởng lớn, vừa có cái riêng của một đôi bạn ỷ hợp tâm đầu. Và cứ giản dị như thế, những con người cùng chung gian khó ấy trở thành đồng chí của nhau: Đồng chí!

Hai tiếng “đồng chí” vang lên, như một tiếng gọi thiết tha. Nhịp thơ đang dàn trải, như những lời thủ thỉ, tâm tình, đến đây chợt lắng lại, ngắt ra thành một câu thơ riêng, chỉ với hai từ và dấu chấm than, tựa như một nốt nhấn ngân vang. Nó vừa là một định nghĩa giản dị về tình đồng chí, vừa có ý nghĩa bản lề đóng lại những dòng cảm xúc bên trên và mở ra những nguồn mạch biểu hiện mới của tình đồng đội. Chính Hữu đã từng có những định nghĩa giản dị như vậy về tình đồng đội thiêng liêng:

“56 ngày đêm bom gầm, pháo giội

Ta mới hiểu thế nào là đồng đội Đồng đội ta

Là hớp nước uống chung

Nắm cơm sẻ nửa

Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa

Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết.”

(Chính Hữu – Giá từng thước đất)

Đồng chí là thế. Là sự gắn bó tha thiết tự trong tim, là sự sẻ chia những tâm tư, những gian khó cuộc đời, là sự thấu hiểu những tình cảm, nghĩ suy:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.”

Đối với những người nông dân, thiết thân nhất là ruộng vườn cả đời cày sâu cuốc bẫm, là ngôi nhà nhỏ có gia đình thân yêu. Vậy nhưng họ vẫn quyết tâm gạt bỏ lại sau lung, lên đường theo tiếng gọi của quê hương, đất nước. Từ “mặc kệ” mộc mạc như cách nói quen thuộc của người dân quê vang lên, ẩn chứa cả ý chí kiên định. Đó không phải là thái độ buông xuôi, vô trách nhiệm mà là biểu hiện của lòng quyết tâm sắt đá. Họ vẫn gắn bó lắm, vẫn yêu nhớ lắm cái mảnh đất quê hương nghèo khó, nên mới có thể cảm nhận được nỗi lòng của người thân nơi hậu phương:

“Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”

Đã bao lần ta bắt gặp hình ảnh cây đa, bến nước, sân đình trong ca dao xưa, nhưng vẫn thật mới mẻ trong thơ Chính Hữu. Biện pháp nghệ thuật hoán dụ “giếng nước”, “gốc đa” gợi ta nhớ tới nơi hò hẹn của những người dân quê, nhắc đến những kỉ niệm một thời gắn bó trên mảnh đất quê hương. Chúng cũng biết “nhớ” khi cách xa những người con thân yêu của làng quê. Nghệ thuật nhân hoá được sử dụng thật đắc địa. Bao tình cảm nặng sâu như đều dồn tụ trong tiếng ”nhớ“ giản dị ấy. Câu thơ gợi ta nhớ đến những tiếng thơ của Hồng Nguyên:

“Ít nhiều người vợ trẻ

Mòn chân bên cối gao canh khuya.”

(Hồng Nguyên – Nhớ)

Giữa người đi xa và người ở lại luôn có một sợi dây vô hình gắn kết. Những người lính cùng nhau san sẻ mọi buồn vui, khó khăn của cuộc sống kháng chiến. Không chỉ thế, tình đồng chí còn tiếp thêm cho họ sức mạnh để họ vượt qua khó khăn, gian khổ của đời lính:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.”

Câu thơ khắc hoạ hoàn cảnh thực của người lính : thường xuyên phải chống chọi với những cơn sốt rét rừng triền miên. Hình ảnh thơ chân thực, cụ thể, nhịp thơ 3/5 đều đều như những lời kể chuyện nhẹ nhàng mang lại cho ta cảm giác se xót trước những gian khó mà người lính phải trải qua trong cuộc đời chiến đấu.

Những hiện thực trần trụi tưởng như không phải là thơ, nhưng lại gieo vào lòng người đọc bao cảm xúc:

“Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày”

Nhịp thơ nhanh, câu thơ ngắn, kết hợp cùng cấu trúc song hành có tác dụng đặc tả sự thiếu thốn của đời lính trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Ta cũng từng bắt gặp những câu thơ đậm chất hiện thực như thế trong thơ Chính Hữu:

“Súng nặng

Đường trơn

Vai gầy

Áo rách”

(Chính Hữu – Tháng năm ra trận)

Nhưng bất chấp gian khổ, người lính vẫn cười – tiếng cười ngạo nghễ của những con người coi thường khó khăn, tiếng cười được sưởi ấm bằng đôi bàn tay nắm chặt:

“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.”

Câu thơ giản dị, nhẹ nhàng, đậm chất lính. Hai tiếng “thương nhau” được đặt lên đầu câu khiến cho nhịp thơ như lắng lại. “Thương” chứ không phải là “yêu”. Trong “thương” không chỉ có tình yêu mà còn có sự cảm thông, sự xót xa cho nhau. Chính trong tâm thế đó, người lính tìm đến nhau trong cái nắm tay tình nghĩa. Đó là cái nắm tay truyền hơi ấm để giúp đồng đội vượt qua cái giá lạnh nơi núi rừng, cũng là cái nắm tay truyền ý chí chiến đấu, truyền ngọn lửa nhiệt tình cách mạng. Đây là ngọn nguồn tạo nên sức mạnh bất diệt của người lính Việt Nam trong kháng chiến. Những người nông dân vốn chỉ lo “côi cút lùm ăn” (Nguyễn Đình Chiểu), quanh năm gắn bó với ruộng đồng, con trâu, cái cày. Nhưng tình yêu quê hương lên tiếng giục giã họ cất bước lên đường. Những gian khổ là nhiều, những hi sinh là không ít, nhưng tình yêu Tổ quốc và tình đồng chí thiêng liêng đã tiếp thêm sức mạnh để người lính vượt qua những khó khăn thử thách đó, để họ vững tay súng, hoàn thành nhiệm vụ mà Tổ quốc và nhân dân giao phó:

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.”

Ba câu thơ ngắn là sự kết tinh tình đồng chí. Giữa nơi chiến trường khốc liệt, thiên nhiên khắc nghiệt : (rừng hoang, sương muối) hình ảnh những người lính kề vai nhau ngời sáng lên đẹp biết bao ! Nó là sự đối chọi với thiên nhiên khắc nghiệt và sự khốc liệt của hiện thực chiến tranh. Từ “bên” ở đây tương thích với từ “bên” trong câu thơ: “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”. Nhưng nếu như ở trên, hai cá thể vẫn tách biệt (súng – súng ; đầu – đầu) thì đến đây, từ “bên nhau” cho ta thấy một sự gắn kết trọn vẹn giữa những người lính. Họ kề vai sát cánh cùng nhau, truyền cho nhau hơi ấm, sức mạnh và niềm tin để thực hiện nhiệm vụ giữ gìn, bảo vệ Tổ quốc. Có thể nói, chính hoàn cảnh khắc nghiệt của núi rừng hoang lạnh, hiểm nguy lại là nơi thử thách tình đồng đội thiêng liêng cao cả của những người lính. Hình ảnh họ toả sáng trong câu thơ kết bất ngờ, độc đáo:

“Đầu súng trăng treo”

Đây là hình ảnh độc đáo, kết tinh giá trị nghệ thuật của cả bài thơ. Chính Hữu từng tâm sự: “Trong chiến dịch, nhiều đêm có trăng. Phục kích giặc trong đêm trước mắt tôi chỉ có ba nhân vật : khẩu súng, vầng trăng và người bạn chiến đấu. Ba nhân vật quyện lại với nhau thành hình ảnh “Đầu súng trăng treo”. Tưởng như không hề có sự dụng công nghệ thuật trong hình ảnh đó, vậy mà nó đưa lại cho người đọc khoái cảm thẩm mĩ thật đặc biệt. Nhịp thơ 2/2 “như nhịp lắc của một cái gì lơ lửng, chông chênh trong sự bát ngát” (Chính Hữu). Súng và trăng như cũng tạo thành một cặp đồng chí, góp phần soi rọi, tô sáng hơn vẻ đẹp của cặp đồng chí kia, mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Súng tượng trưng cho khói lửa chiến tranh, trăng tượng trưng cho cuộc sống thanh bình. Súng và trăng vừa đối lập lại vừa hài hoà, một bên là hiện thực, một bên là ước mơ. Ta nhận ra trong câu thơ sự kết hợp hài hoà giữa tâm hồn chiến sĩ và thi sĩ, giữa chất hiện thực đằm sâu và chất lãng mạn bay bổng. Đó chính là yếu tố làm nên giá trị độc đáo của câu thơ này.

Kết bài

“Trong bài Đồng chí, tôi muốn nhấn mạnh đến tình đồng đội. Suốt cả cuộc chiến đấu, chỉ có một chỗ dựa dường như là duy nhất để tồn tại, để chiến đấu, là tình đồng chí, đồng đội” (Chính Hữu).

Cả bài thơ là khúc ca về tình cảm chân thành, thiêng liêng của những người lính nông dân. Từ những miền quê nghèo khác nhau trên dải đất hình chữ S, cùng chung sự khốn khó, chung lí tưởng chiến đấu, họ đến với nhau, giản dị mà chân thành. Bài thơ sẽ còn ngân vang mãi trong trái tim, tâm hồn mỗi người dân Việt Nam như một biểu tượng đẹp về tình đồng chí bất tử!

Văn chương nghệ thuật cần đến những con người biết nhìn hiện thực bằng trái tim. Chính Hữu đã đem hiện thực vào trang viết của mình một cách tự nhiên nhưng đồng thời cũng đặt vào bức tranh ấy một viên ngọc sáng thuần khiết nhất, đó là tình đồng chí đồng đội keo sơn thắm thiết. Để rồi khi thời gian trôi qua, tác phẩm trở thành bài ca không quên trong lòng bạn đọc.

Đề 3: Phân tích cảm nhận 7 câu đầu bài thơ Đồng chí – Chính Hữu

Mở bài

Chính Hữu là cây bút thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Vốn là một người lính nên các tác phẩm của ông chủ yếu viết về đề tài chiến tranh và người lính với giọng điệu nhẹ nhàng, tha thiết, ngôn ngữ hình ảnh thơ chọn lọc, cô đọng gợi nhiều ý nghĩa biểu tượng sâu xa. “Đồng chí” là một tác phẩm như vậy. Đến với những câu thơ nói về cơ sở, biểu hiện và ý nghĩa biểu tượng của tình đồng chí, ta nhận ra được vẻ đẹp của anh bộ đội Cụ Hồ trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp.

Bài thơ được viết vào năm 1948 Thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp trong đó có đoạn thơ:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Súng bên súng đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ

Đồng chí !”

Đoạn thơ là lời lý giải về cơ sở hình thành tình đồng chí, đồng đội của những người lính.

Thân bài

Tình đồng chí đồng đội của người lính bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân nghèo khó, tương đồng về giai cấp tình đồng chí, đồng đội nảy sinh khi cùng chung nhiệm vụ sát cánh bên nhau trong chiến đấu. Tình đồng chí, đồng đội nảy nở trong sự chan hòa chia sẻ của mọi gian lao thiếu thốn của cuộc kháng chiến.

Trước hết ở đoạn thơ này, người đọc thấy được tình đồng chí, đồng đội của người lính bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân nghèo khó.

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Hai câu thơ với giọng điệu thơ thủ thỉ, tâm tình (quê hương anh, làng tôi) đã gợi ra tình cảm thiết tha. Hình ảnh “quê hương anh”, “ làng tôi” hiện lên với bao nỗi vất vả, gian lao “Nước mặn, đồng chua” là vùng đất ven biển nhiễm phèn khó làm ăn. “ đất cày lên sỏi đá” là vùng đất trung du, đồi núi, đất đã bị ong hóa, khó canh tác. Với việc sử dụng 2 thành ngữ tác giả khiến người đọc hình dung quê hương anh quê hương của những người lính là những vùng quê nghèo khó, lam lũ, hai câu thơ có cấu trúc sóng đôi, đối xứng “quê hương anh, làng tôi” chỉ nói về đất đai mối quan tâm hàng đầu của những người nông dân, nhưng đã diễn ra sự tương đồng với cảnh ngộ xuất thân nghèo khó, tương đồng với giai cấp nông dân. Chính vì vậy những người lính còn được gọi là cái tên thân thương người nông dân mặc áo lính.

Tình đồng chí, đồng đội của những người lính còn bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng và giai cấp. Họ cùng là giai cấp nông dân. Chính điều đó đó cùng với mục đích, lý tưởng chung đã khiến họ từ mọi phương trời xa lạ tập hợp lại trong hàng ngũ đội quân cách mạng và trở nên thân thiết với nhau.

“Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”

Cụm từ “anh với tôi” và từ “đôi” chỉ hai người, hai đối tượng không thể tách rời, kết hợp với từ “xa lạ” làm cho ý thơ được nhấn mạnh hơn. “Tự phương trời” chẳng quen nhau nhưng cùng thời, cùng tham gia chiến đấu, giữa họ nảy nở một thứ tình cảm cao đẹp tình đồng chí, đồng đội.

Tình đồng chí, đồng đội còn được nảy sinh khi cùng chung nhiệm vụ sát cánh bên nhau trong chiến đấu.

“Súng bên súng đầu sát bên đầu”

“Súng và đầu” là hình ảnh tượng trưng cho nhiệm vụ chiến đấu và lý tưởng cao đẹp trong một câu thơ từ “súng” và từ “đầu” được lặp lại hai lần tạo hai vế cân xứng, thể hiện sự gắn bó của những người lính. Điều đó càng chứng tỏ tình đồng chí là sự gắn kết trọn vẹn cả về ý chí, lí tưởng mục đích cao cả chiến đấu giành độc lập tự do.

Cũng ở đoạn thơ này ta thấy được tình đồng chí, đồng đội nảy nở và bền chặt trong sự chan hòa, chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui, nỗi buồn đó là mối tình tri kỷ của những người bạn chí cốt mà tác giả biểu hiện cụ thể, một hình ảnh giản dị và hết sức gợi cảm “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”. “Chung chăn” có nghĩa là chung cái khó khăn, khắc nghiệt của cuộc đời người lính, nhất là chung hơi ấm để vượt qua cái lạnh. Chính điều đó khiến họ trở thành đôi tri kỷ. Từ “đôi” thể hiện sự than thiết, gắn bó của những người lính.

Khổ thơ được kết thúc bằng một câu thơ hết sức đăc biệt

Đồng chí!

Câu thơ chỉ có hai tiếng và kết thúc bằng dấu chấm than tạo một nốt nhấn, vang lên như một sự phát hiện, lời khẳng định. Đồng thời như một chiếc bản lề khép mở sự lí giải cội nguồn của tình đồng chí ở sáu câu thơ trước với những biểu hiện, sức mạnh của tình đồng chí trong những câu thơ tiếp theo của bài thơ. Nếu coi bài thơ như một cơ thể sống thì hai tiếng “Đồng chí” như một trái tim hồng nuôi sống cả bài thơ. Nó có sức vang dội và ngân nga mãi trong lòng người đọc. Chính Hữu đã từng tâm sự rằng: “Những năm đầu cách mạng từ “đồng chí” mang ý nghĩa thiêng liêng và máu thịt vô cùng. Nơi khó khăn, cuộc sống của người này trở nên cần thiết với người kia. Một người có thể thay thế cho gia đình, cho cha mẹ, vợ con đối với một người khác. Hơn nữa, họ còn bảo vệ nhau trước mũi súng của kẻ thù, cùng nhau đi qua cái chết, chống lại cái chết, cùng nhau thực hiện một lí tưởng cách mạng. Đó là ý nghĩa thiêng liêng của tình đồng chí bấy giờ”.

Như vây, bằng những ngôn từ giản dị, mộc mạc, chân thực, tự nhiên mà hàm súc, cô đọng, hình ảnh giản dị và giàu sức gợi, cảm xúc dồn nén, nhiều phép tu từ đặc sắc, đoạn thơ đã làm nổi bật những cơ sở hình thành tình đồng chí. Tình đồng chí là một tình cảm cao đẹp. Nó được hình thành từ long đồng cảm giai cấp, từ sự đồng điệu về nhiệm vụ, lí tưởng và hơn cả là được nảy nở từ trong những gian lao vất vả .Thông qua đoạn thơ, chúng ta nhận ra ở nhà thơ Chính Hữu là một sự trân trọng đặc biệt dành cho tình cảm cao đẹp ấy và cũng là dành cho những người lính bộ đội cụ Hồ.

Kết bài

Đoạn thơ đã lý giải về cơ sở hình thành tình đồng chí, đồng đội, đồng thời làm nên hiện lên hình ảnh giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội cụ Hồ thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp còn rất khó khăn, thiếu thốn. Viết về đề tài người lính trong chiến tranh không có tiếng súng nhưng tình cảm của người lính, tình đồng chí, đồng đội của người lính vẫn cao cả hào hung, tình đồng chí, đồng đội là bản chất cách mạng của anh bộ đội Cụ Hồ.

Đề 4: Trình bày cảm nhận của em về đoạn thơ sau: “Anh với tôi ... tay nắm lấy bàn tay" và "Không có kính không phải vì xe không có kính ... nhìn trời nhìn thẳng"

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay

Đồng chí!”

(Đồng chí – Chính Hữu)

“ Không có kính không phải vì xe không có kính

Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi

Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng

(Bài thơ về Tiểu Đội Xe Không Kính – Phạm Tiến Duật)

Mở bài

Hình tượng người lính là đề tài, là nguồn cảm hứng sáng tác cho các nhà văn, nhà thơ. Viết về họ có nhiều vần thơ đẹp tạo lên những rung cảm sâu sắc trong lòng người đọc. Trong số đó phải kể đến bài thơ “Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật. Trong đó là hai đoạn thơ:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay

Đồng chí!”

(Đồng chí – Chính Hữu)

“ Không có kính không phải vì xe không có kính

Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi

Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng

(Bài thơ về Tiểu Đội Xe Không Kính – Phạm Tiến Duật)

Hai đoạn thơ đã thể hiện hình ảnh người lính trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ với vẻ đẹp cao quý, lạc quan, dũng cảm, thắm tình đồng chí, đồng đội.

Thân bài

Bài thơ được ra đời hai thời điểm khác nhau. Bài thơ “Đồng chí” được Chính Hữu viết vào năm 1948 thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. “Bài thơ tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật viết vào năm 1969 thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra ác liệt. Hai đoạn thơ đều cho chúng ta thấy những khó khăn, thiếu thốn mà những người lính phải trải qua, đồng thời làm hiện hình ảnh người lính với vẻ đẹp và tâm hồn cao quý.

Trước hết bài thơ “Đồng chí” Chính Hữu đã làm hiện lên hình ảnh những người lính gắn bó với điều kiện chiến đấu gian khổ, thiếu thốn nhưng họ luôn lạc quan và thắm tình đồng chí đồng đội.

Những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bộ đội ta phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, gian khổ tất cả điều đó được Chính Hữu gợi tả hết sức chân thực:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Những người lính cách mạng đã chấp nhận cuộc sống quân ngũ thiếu thốn. Họ phải trải qua gian lao thiếu thốn của cuộc đời người lính. Với những hình ảnh cụ thể , chân thực (áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá, Miệng cười buốt giá, chân không giày) và các cặp câu thơ sóng đôi đối ứng( áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá, Miệng cười buốt giá, chân không giày) tạo sự nhịp nhàng, cân xứng cho câu thơ, đồng thời diễn tả sự giống nhau trong mọi cảnh ngộ cuộc đời người lính. Những người lính trong trang phục phong phanh giữa mùa đông giá lạnh, thiếu thốn về quân tư trang ( áo anh rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày), họ phải chịu cái khắc nghiệt của thời tiết “ miệng cười buốt giá” đặc biệt họ phải chịu những cơn sốt rét rừng nguy hiểm “Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”. Chỉ qua những chi tiết đó thôi đã cho ta thấy những người lính cách mạng phải chịu những khó khăn, gian khổ, thiếu thốn đến nhường nào.

Đoạn thơ thể hiện hình ảnh người lính với tinh thần lạc quan, thắm tình đồng chí, đồng đội khó khăn, gian khổ những người lính bộ đội cụ Hồ vẫn sáng nên vẻ đẹp cao quý.

Trước hết họ là những người có tinh thần lạc quan trong gian khổ thiếu thốn, tinh thần lạc quan càng rạng ngời: “Miệng cười buốt giá”. Những gian lao thiếu thốn không làm mất đi nụ cười của họ, nụ cười của những người lính như xua tan cái giá lạnh của mùa đông, nụ cười đó còn toát lên tinh thần lạc quan của những người lính.

Những người lính còn thắm tình đồng chí, đồng đội. Tình đồng chí, đồng đội là bản chất cách mạng của anh bộ đội cụ Hồ. Tình đồng chí, đồng đội đã làm ấm lòng những người chiến sĩ để họ vẫn cười trong buốt giá và vượt lên trên mọi buốt giá. Những người lính vẫn cười trong gian lao bởi họ có hơi ấm, niềm tin của tình đồng chí. Tình đồng chí đã giúp họ vượt qua những gian lao thiếu thốn cuộc kháng chiến. Những người lính đã quên mình đi để động viên, tuyên truyền cho nhau hơi ấm để có thêm sức mạnh vượt qua mọi gian lao thiếu thốn.

“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

Những người lính đã quên đi cái khắc nghiệt của thời tiết, khó khăn thiếu thốn của cuộc kháng chiến để “tay nắm lấy bàn tay” đây là một cử chỉ rất cảm động chứa chan tình cảm chân thành. “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”, vừa nói lên tình cảm gắn bó sâu nặng của người những người lính, vừa gián tiếp thể hiện sức mạnh của tình cảm thấy. Dường như chỉ bằng một cử chỉ “tay nắm lấy bàn tay” mà những người lính như truyền cho nhau hơi ấm, sức mạnh, niềm tin giúp họ vượt qua được khó khăn gian khổ, sưởi ấm cho họ giữa những cánh rừng hoang sương muối mùa đông giá rét.

Như vậy Chính Hữu đã sử dụng thể thơ tự do, những chi tiết hình ảnh ngôn ngữ giản dị, chân thực cô động, giàu sức biểu cảm. Các câu thơ sóng đôi, đối ứng đã thể hiện hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ thời kháng chiến chống thực dân Pháp còn nhiều khó khăn gian khổ thắm tình đồng chí, đồng đội.

Đến với đoạn thơ trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật ta lại bắt gặp hình ảnh người lính lái xe Trường Sơn với những khó khăn gian khổ của cuộc chiến đấu, nhưng lại rất ung dung, hiên ngang, dũng cảm.

Hai câu thơ mở đầu đoạn thơ đã làm nổi bật hình ảnh độc đáo những chiếc xe không kính. Xưa nay hình ảnh xe , tàu thuyền nếu đưa vào thơ ca thì thường được lãng mạn hóa, mỹ lệ hóa và còn mang ý nghĩa tượng trưng hơn tả thực Tế Hanh đã từng miêu tả con thuyền trong bài “Quê hương”, “Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã” và Huy Cận từng miêu tả cảnh đoàn thuyền đánh cá trong bài “Đoàn thuyền đánh cá”, “Thuyền ta lái gió với buồm trăng”. Những chiếc xe không kính của Phạm Tiến Duật là hình ảnh rất thực. Hình ảnh thực này được diễn tả bằng hai câu thơ rất là giản dị như một lời nói thường có giọng điệu thản nhiên:

“Không có kính…. vỡ đi rồi”

Chính giọng thản nhiên đã gây sự chú ý về vẻ khác lạ của những chiếc xe, tác giả giải thích nguyên nhân cũng rất thực, giản dị, tự nhiên: “Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi” bom đạn chiến tranh đã làm cho những chiếc xe ấy không còn chính kính chắn gió. Như vậy hình ảnh những chiếc xe không kính vốn không hiếm trong chiến tranh. Nhưng phải có một hồn thơ nhạy cảm với những nét ngang tàng nghịch ngợm, thích cái lạ của Phạm Tiến Duật mới nhận ra và đưa nó thành hình tượng thơ độc đáo của thời kỳ chiến tranh chống Mỹ. Từ hình ảnh những chiếc xe không kính người đọc hình dung được sự khốc liệt của chiến tranh.

Từ việc miêu tả những chiếc xe không kính, tác giả muốn ngợi ca người chiến sĩ lái xe. Hình ảnh những chiếc xe không kính đã làm nổi bật rõ hình ảnh người lính lái xe Trường Sơn. Thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu lại là hoàn cảnh để những người lính lái xe bộc lộ phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao của họ. Đó là những người lính lái xe ung dung, hiên ngang, bất khuất.

“Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”

Câu thơ đã diễn tả cảm giác ấn tượng căng thẳng, đầy thử thách khi lái những chiếc xe không kính, những người chiến sĩ không hề run sợ mà trái lại họ hiện ra tư thế ung dung, hiêng ngang. Từ láy tượng hình “ ung dung” đã diễn tả rất chính xác tư thế của những người lính lái xe. Kết cấu trong 6 chữ với nhịp 2/2/2, điệp ngữ “nhìn” cùng phép đảo ngữ (chữ ung dung đảo lên đầu câu thơ) đã làm nổi bật những cái tư thế ấy. Dường như ở phía trước cả không gian đất trời thu vào tầm mắt của họ qua khung cửa xe không có kính chắn gió.

Với thể thơ tự do, giọng thơ rất gần với lời nói thường, tự nhiên, khỏe khoắn, từ ngữ giàu cảm xúc Phạm Tiến Duật đã khắc họa hình ảnh những chiếc xe không kính qua đó làm nổi bật hình ảnh những người lính lái xe Trường Sơn sừng sững hiên ngang trước mọi khó khăn nguy hiểm.

Như vậy hai bài thơ nói chung, hai đoạn thơ nói riêng viết ở các thời điểm khác nhau. Nhưng đều giúp người đọc cảm nhận được những khó khăn, thiếu thốn mà người lính cách mạng phải trải qua, đồng thời làm hiện lên vẻ đẹp tâm hồn cao quý. Họ chính là đại diện cho thế hệ trẻ Việt Nam trong công cuộc bảo vệ tổ quốc. Cả hai đoạn thơ đều sử dụng những hình ảnh giản dị, chân thực, từ ngữ giàu hình ảnh, sức gợi.

Kết bài

Hình ảnh người lính trong hai đoạn thơ bài thơ “Đồng Chí” và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” đều phải trải qua những khó khăn, gian khổ, thiếu thốn của cuộc kháng chiến, đồng thời họ nhìn lên với vẻ đẹp tâm hồn cao quý. Đó là những anh lính thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp lạc quan, thắm tình đồng chí, đồng đội. Đó là những anh lính lái xe Trường Sơn dũng cảm, ung dung, hiên ngang. Vẻ đẹp của những người lính khiến chúng ta yêu mến, cảm phục, tự hào. Là thế hệ trẻ chúng ta phải tiếp nối truyền thống yêu nước của thế hệ cha ông đi trước.

Đề 5: Cảm nhận của em về đoạn thơ sau: "Ruộng nương anh gửi .. tay nắm lấy bàn tay"

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vừng trán ước mồ hôi.

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.”

Mở bài

Thế kỉ XX dân tộc ta phải đương đầu với nhiều cuôc chiến. Tiếng súng kêu, tiếng bom rơi đạn nổ, máu và nước mắt của dân tộc ta không ngừng tuôn rơi để có ngày độc lập. Suốt những năm tháng đau thương và hùng tráng ấy. Hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ luôn là hiện thân cho vẻ đẹp thời đại. Một trong số những bài thơ hay nhất, xúc động nhất viết về hình ảnh người lính chống Pháp là bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu, mà tiêu biểu là đoạn thơ nói về sự đồng cam cộng khổ thiếu thốn của người lính trong kháng chiến.

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vừng trán ước mồ hôi.

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.”

Thân bài

Bài thơ được sáng tác vào đầu năm 1948 khi cuộc kháng chiến chống Pháp đang diễn ra vô cùng ác liệt. Sau khi cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947) đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc, Chính Hữu bị ốm nặng được đưa về trạm quân y điều trị. Đơn vị cử một người đồng đội ở lại để chăm sóc ông. Cảm kích trước tấm long của người đồng đội đó, ông đã sáng tác bài thơ này. Bài thơ đã giúp người đọc hiểu thêm về một tình cảm cao đẹp- tình đồng chí và vẻ đẹp tâm hồn của những người lính bộ đội cụ Hồ.

Ở 7 câu thơ đầu, bằng những ngôn từ giản dị, mộc mạc, chân thực, tự nhiên mà hàm súc, cô đọng, hình ảnh giản dị và giàu sức gợi, cảm xúc dồn nén, nhiều phép tu từ đặc sắc, đoạn thơ đã làm nổi bật những cơ sở hình thành tình đồng chí. Tình đồng chí là một tình cảm cao đẹp. Nó được hình thành từ long đồng cảm giai cấp, từ sự đồng điệu về nhiệm vụ, lí tưởng và hơn cả là được nảy nở từ trong những gian lao vất vả. Và đến khổ thơ thứ 2 Chính Hữu tiếp tục viết về tình cảm ấy mà cụ thể là biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội.

Những biểu hiện cao đẹp của tình đồng chí

Trước hết, tình đồng chí là sự thấu hiểu, chia sẻ những tâm tư, nỗi lòng của nhau:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”.

Ra chiến trường vì lí tưởng bảo vệ tổ quốc, những người lính đã phải gửi lại quê hương tất cả, là mẹ già, vợ trẻ, con thơ, là luống mạ đang gieo, mảnh ruộng đang cày, là căn nhà tranh gió lùa tốc mái. Mặc dù vậy, họ vẫn ra đi với một sự quyết tâm cao độ. Hai tiếng “mặc kệ” đã minh chứng cho điều đó. Xưa nay, người ta thường dung “mặc kệ” để nói về sự thờ ở, vô cảm nhưng ở đây “mặc kệ” lại thể hiện thái độ dứt khoát, quyết tâm của những người lính bộ đội cụ Hồ.

Lời thơ của Chính Hữu có sự đồng điệu với một ý thơ của Nguyễn Đình Thi trong bài thơ “Đất nước”:

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”

Có thể nói rằng, thái độ dứt khoát, sự quyết tâm ấy chính là một nét chung đẹp đẽ của những người lính trong hai cuộc kháng chiến trường kì. Khi họ đã xác định được lí tưởng, mục tiêu rõ rang thì họ quyết không để tình riêng vướng bận.

Nhưng dù có dứt khoát đến đâu thì khi ra chiến trường họ cũng luôn nhớ vê quê hương với một tình yêu trọn vẹn:

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.

Đọc lời thơ ta không khó để nhận ra biện pháp nghệ thuật hoán dụ. ảnh “Giếng nước gốc đa” chính là biểu tượng của quê hương – nơi có gia đình, có người thân, nơi in dấu những kỉ niệm của tuổi thơ, tuổi trẻ. Với ý nghĩa như thế, câu thơ đã diễn tả nỗi nhớ hai chiều giữa hậu phương và tiên tuyến bởi nếu không hướng về quê hương với một tình yêu trọn vẹn thì người lính không thể cảm nhận được quê hương luôn dõi theo bước chân mình. Bao tình cảm sâu nặng như đều dồn tụ trong tiếng “nhớ” giản dị ấy! Song, góc nhớ thương đó không làm cho các anh mềm lòng, mất đi ý chí cứu nước mà nó thôi thúc, động viên người lính nông dân bền gan vững chí, cầm chắc tay súng lập công. Bởi lẽ nước nhà sớm độc lập thì các anh mới sớm được trở về với quê hương, xóm làng… Quả thật, giữa người chiến sĩ và quê hương có mỗi giao cảm vô cùng sâu sắc,đậm đà. Người đọc cảm nhận từ hình ảnh thơ một tình quê ăm ắp và đây cũng là nguồn động viên, an ủi, là sức mạnh tinh thần giúp người chiến sĩ vượt qua mọi gian lao, thử thách suốt một thời máu lửa, đạn bom.

Tình đồng chí còn là sự đồng cam cộng khổ, chia sẻ những khó khăn thiếu thốn của cuộc đời người lính:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.

Bằng những hình ảnh tả thực, hình ảnh sóng đôi, tác giả đã tái hiện chân thực những khó khăn thiếu thốn trong buổi đầu kháng chiến. Đó trước hết là căn bệnh sốt rét rừng đã trở thành nỗi ám ảnh. Hai câu thơ

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vần trán ướt mồ hôi”

Đã tái hiện một cách chân thực và đầy đủ những biểu hiện của bệnh sốt rét rừng. Khi ấy, người bệnh rét run lên, đắp bao nhiêu chăn cũng không đủ nhưng mồ hôi lại vã ra như tắm. Câu thơ chỉ như một lời kể nhưng lại gieo vào lòng người đọc biết bao nhiêu thương cảm. Ta thương các anh vì trong suốt chặng đường bảo vệ tổ quốc thân yêu các anh không chỉ bị bệnh tật dày vò mà còn thiếu thốn tất cả: thiếu lương thực, thiếu vũ khí, quân trang, thiếu thuốc men…Song dù thiếu thốn, dù khó khăn thì sức mạnh của tình đồng chí đã giúp họ vượt qua tất cả.

Nếu hình ảnh “Miệng cười buốt giá” đã làm ấm lên, sáng lên tinh thần lạc quan của người chiến sĩ trong gian khổ thì cái nắm tay lại thể hiện tình đồng chí, đồng đội thật sâu sắc! Cách biểu lộ chân thực, không ồn ào mà thấm thía. Tất cả những cảm xúc thiêng liêng được dồn nén trong hình ảnh thơ rất thực, rất cảm động, chứa đựng biết bao ý nghĩa:

“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

Những cái bắt tay chất chứa bao yêu thương trìu mến. Rõ ràng, tác giả đã lấy sự thiếu thốn đến vô cùng về vật chất để tô đậm sự giàu sang vô cùng về tinh thần. Những cái bắt tay là lời động viên chân thành, để những người lính cùng nhau vượt qua những khó khăn, thiếu thốn. Đó là những cái bắt tay của sự cảm thông, mang hơi ấm để truyền cho nhau thêm sức mạnh. Đó còn là lời hứa lập công, của ý chí quyết tâm chiến đấu và chiến thắng quân thù. Có lẽ không ngôn từ nào có thể diễn tả cho hết tình đồng chí thiêng liêng ấy. Chính những tình cảm, tình đoàn kết gắn bó đã nâng đỡ bước chân người lính và sưởi ấm tâm hồn họ trên mọi nẻo đường chiến đấu.

Như vây, bằng những từ ngữ giản dị, mộc mạc, chân thực, tự nhiên mà hàm súc, cô đọng, hình ảnh giản dị và giàu sức gợi, cảm xúc dồn nén; nhiều phép tu từ đặc sắc, đoạn thơ đã khắc họa chân thực, cảm động một tình cảm lớn mang tính thời đại, đó là tình đồng chí bền chặt, thiêng liêng của những người lính cách mạng. Qua đó tác giả đã khắc họa thành công hình ảnh người lính thời kì đầu kháng chiến chống Pháp. Thông qua những lời thơ ấy, chúng ta nhận ra ở nhà thơ Chính Hữu là một sự trân trọng đặc biệt dành cho tình cảm cao đẹp ấy và cũng là dành cho những người lính bộ đội cụ Hồ.

Kết bài

Có thể nói rằng “Đồng chí” của Chính Hữu là một bài thơ độc đáo. Bài thơ ấy và nhất là khổ thơ thứ 2 đã khơi gợi trong lòng người đọc không ít những tình cảm đẹp. Nó khiến ta càng thêm cảm phục trước tài năng của nhà thơ Chính Hữu, càng thêm trân trọng, yêu mến những người lính bộ đội cụ Hồ và hơn cả là càng thêm tự hào về lịch sử oai hùng của dân tộc. Đoạn thơ còn đem đến cho ta những bài học vô cùng sâu sắc. Đó là bài học về tinh thần vượt khó, bài học về lòng yêu nước, về tình yêu quê hương. Và có lẽ chính vì thế mà sau bao thăng trầm của lịch sử, “ Đồng chí” của Chính Hữu vẫn còn mãi trong lòng bạn đọc.

Đề 6: Có ý kiến cho rằng: Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu là một tượng đài tráng lệ, cao cả, thiêng liêng về người chiến sĩ trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Em hãy phân tích bài thơ để làm sáng tỏ ý kiến.

Mở bài

Thế kỉ XX dân tộc ta phải đương đầu với nhiều cuộc chiến. Tiếng súng kêu, tiếng bom rơi đạn nổ, máu và nước mắt của dân tộc ta không ngừng tuôn rơi để có ngày độc lập. Suốt những năm tháng đau thương và hùng tráng ấy. Hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ luôn là hiện thân cho vẻ đẹp thời đại. Một trong số những bài thơ hay nhất, xúc động nhất viết về hình ảnh người lính chống Pháp là bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu, vì thế có ý kiến cho rằng: Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu là một tượng đài tráng lệ, cao cả, thiêng liêng về người chiến sĩ trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Chính Hữu là nhà thơ trẻ đứng trong hàng ngũ những nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Là một nhà thơ chiến sĩ nên phần lớn tác phẩm thơ ca của Chính Hữu mang đề tài người lính và chiến tranh, trong đó tiêu biểu nhất là bài thơ “Đồng chí” được sáng tác năm 1948. Ra đời trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến, bài thơ đã mang đến cho người đọc cái nhìn chân thực nhất về hoàn cảnh chiến đấu gian khổ, khó khăn của bộ đội và nhân dân ta, cũng từ đó cho ta thấy được vẻ đẹp của tình đồng chí đồng đội giữa những người lính.

Thân bài

a. Giới thiệu khái quát về bài thơ

Bài thơ được sáng tác vào đầu năm 1948 khi cuộc kháng chiến chống Pháp đang diễn ra vô cùng ác liệt. Sau khi cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947) đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc, Chính Hữu bị ốm nặng được đưa về trạm quân y điều trị. Đơn vị cử một người đồng đội ở lại để chăm sóc ông. Cảm kích trước tấm long của người đồng đội đó, ông đã sáng tác bài thơ này. Bài thơ đã giúp người đọc hiểu thêm về một tình cảm cao đẹp- tình đồng chí và vẻ đẹp tâm hồn của những người lính bộ đội cụ Hồ.

b. Chứng minh nhận định

*Giải thích nhận định: Lời nhận định trên đã đánh giá chính xác sự thành công của bài thơ Đồng chí. Bức tượng đài tráng lệ là hình ảnh của những người lính được khắc họa rực rỡ, đẹp đẽ, cao cả và thiêng liêng.

c. Chứng minh nhận định:

*Vẻ đẹp rực rỡ, cao cả, thiêng liêng của người chiến sĩ được thể hiện rất rõ trong đoạn thơ nói về cơ sở hình thành tình đồng chí:

+ Những người lính có xuất thân nghèo khổ. Họ đều là những người nông dân từ đồng bằng ven biển, từ miền núi có nhiều khó khăn, gian khổ.

+ Người lính có chung lí tưởng chiến đấu cao đẹp. Dù ở mọi phương trời khác nhau, nhưng họ nghe theo tiếng gọi của TQ mà lên đường chiến đấu.

+ Người lính có chung hoàn cảnh sống và chiến đấu: Súng bên súng, đầu sát bên đầu, đêm rét chung chăn. Vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, họ vẫn kề vai, sát cánh bên nhau, để từ xa lạ, đến quan nhau, thành tri kỉ và đòng chí.

+ Kết thúc khổ thơ là một nốt nhấn, một sự kết tinh cảm xúc: Đồng chí!

*Vẻ đẹp rực rõ, cao cả, thiêng liêng của người chiến sĩ được thể hiện ở tình đồng chí gắn bó với nhau trong cuộc sống gian lao:

+ Họ cảm thông, chia sẻ tâm tư, nỗi nhớ quê : nhớ ruộng nương, lo cảnh gian nhà không nghèo khổ. Từ “ mặc kệ” chỉ thái độ cương quyết, quyết tâm lên đường ra đi. Không cần phải nói ra, nhưng họ hiểu cảm xúc của nhau

+ Người lính cùng chia sẻ những gian lao, thiếu thốn, những cơn sốt rét rừng nguy hiểm. Tác giả khắc họa hình ảnh người lính bằng bút pháp hiện thực, những hình ảnh thơ song hành, đối nhau: áo rách vai/ chân không giày…Dù khó khăn, gian khổ nhưng họ vẫn vượt lên, kiên cường chiến đấu bằng tình đồng chí, đồng đội sâu sắc: Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. Đó là cái nắm tay để san sẻ khó khăn, động viên nhau bằng tình đồng chí gắn bó keo sơn.

* Vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng của tình đồng chí được thể hiện thật lãng mạn khi họ sát cánh bên nhau canh gác:

+ Những người lính canh gác trong không gian, thời gian khắc nghiệt: đêm, rừng hoang, sương muối.

+ Họ sát cánh bên nhau vì cùng chung chiến hào, chung nhiệm vụ chiến đấu, chủ động trong tư thế: chờ giặc.

+ Hình ảnh người lính cao đẹp, thiêng liêng được kết tinh trong hình ảnh thơ rất đẹp: đầu súng trăng treo. Đó là bức tượng đài người lính, hình ảnh đẹp nhất, cao quý nhất của tình đồng chí. Hình ảnh thơ vừa lãng mạn, vừa hiện thực, vừa là tinh thần thép của những người lính, vừa là tâm hồn thi sĩ lãng mạn.

c. Đánh giá

- Với nhiều hình ảnh chọn lọc, từ ngữ gợi cảm mà lại gần gũi thân thuộc, với biện pháp sóng đôi, đối ngữ được sử dụng rất thành công, Chính Hữu đã viết nên một bài ca với những ngôn từ chọn lọc, bình dị mà có sức ngân vang. Bài thơ đã ca ngợi tình đồng chí hết sức thiêng liêng, như là một ngọn lửa vẫn cháy mãi, bập bùng không bao giờ tắt, ngọn lửa thắp sáng đêm đen của chiến tranh.

Kết bài

Bài thơ kết thúc nhưng lại mở ra những suy nghĩ mới trong lòng người đọc. Nó đã làm sống lại một thời khổ cực của cha anh ta, làm sống lại chiến tranh ác liệt. Bài thơ khơi gợi lại những kỉ niệm đẹp, những tình cảm tha thiết gắn bó yêu thương mà chỉ có những người đã từng là lính mới có thể hiểu và cảm nhận hết được. Và phải chắng chính vì thế mà sau bao thăng trầm của lịch sử, “Đồng chí” của Chính Hữu vẫn còn mãi trong lòng bạn đọc.

Đề 7: Phân tích vẻ đẹp của người lính qua hai bài thơ: “Đồng chí” và “Tiểu đội xe không kính”.

Mở bài

Hình tượng người lính là đề tài, là nguồn cảm hứng sáng tác cho các nhà văn, nhà thơ. Viết về họ có nhiều vần thơ đẹp tạo lên những rung cảm sâu sắc trong lòng người đọc. Trong số đó phải kể đến bài thơ “Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật. Cả hai bài thơ đều giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của những người lính cụ Hồ - những con người làm nên lịch sử hào hùng của dân tộc.

Thân bài

a. Giới thiệu khái quát về hoàn cảnh ra đời của hai bài thơ

-Giới thiệu hoàn cảnh ra đời

- Những người lính trong hai bài thơ thuộc hai thế hệ khác nhau nhưng ở họ có nhiều nét đẹp chung của người lính cách mạng và của con người Việt Nam trong các cuộc kháng chiến cứu nước.

b. Hình ảnh người lính

* Họ đều là những con người bình dị, mộc mạc, thấm nhuần tinh thần yêu nước, khát vọng độc lập tự do để đi vào cuộc chiến đấu.

- Người lính trong bài thơ “Đồng chí” xuất thân từ những cảnh ngộ nghèo khó: “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”. Họ là những người nông dân vừa được cách mạng giải phóng khỏi kiếp nô lệ lầm than. Bởi vậy, tình nguyện ra nhập bộ đội cầm lấy khẩu súng của cách mạng cũng chính là cầm vũ khí để giải phóng triệt để cho thân phận của mình, cho quần chúng và cho cả dân tộc. Vì tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc mà họ “mặc kệ” tất cả, sẵn sàng từ biệt làng quê với ruộng nương, nhà cửa vốn hết sức thân thiết, gắn bó để ra đi, dấn thân vào cuộc đời người chiến sĩ:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

- Còn người lính trong thơ Phạm Tiến Duật là những chàng trai còn rất trẻ, có tri thức, họ sẵn sàng gác lại những ước vọng tương lai của mình để cống hiến tuổi thanh xuân theo tiếng gọi thiêng liêng của miền Nam yêu dấu:

“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước.

Mà lòng phơi phới dậy tương lai”.

c. Nhờ có tình đồng chí, đồng đội keo sơn gắn bó bền chặt, chan hoà và nhờ lòng dũng cảm, hiên ngang, mà họ đã bất chấp những gian khổ, thiếu thốn đến tột cùng để hoàn thành nhiệm vụ.

- Trên trận tuyến gay go ác liệt, các anh phải cùng chịu biết bao khó khăn gian khổ, thiếu thốn.

+ Thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp vô cùng gian nan vất vả, các anh đã từng chịu những cơn “sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”, cùng cảnh “áo rách vai, quần tôi có vài mảnh vá”, “chân không giầy”… Cũng chính từ trong gian khổ và thiếu thốn của những ngày đầu tiên bước vào quân ngũ ấy đã nẩy sinh ở họ mối tình cao đẹp – tình đồng chí! Và chính có tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn, chia bùi sẻ ngọt mà họ có đủ sức mạnh lớn lao để vượt qua tất cả: “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Đẹp làm sao giữa đêm rừng hoang đầy sương muối, ở nơi mà sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc, những người chiến sĩ vẫn ôm súng đứng canh gác quân thù trong đêm trăng sáng. Các anh vẫn chiến đấu và vẫn cứ tin có ngày chiến thắng. Ta thấy được ở các anh một tinh thần chiến đấu dũng cảm kiên cường, một niềm lạc quan bất diệt. Đời lính gian khổ nhưng luôn giữ mãi nụ cười dẫu cho nó cận kề cái chết. “Đầu súng trăng treo”, một biểu tượng đẹp của hình ảnh người lính, biểu tượng cao quý của mối tình đồng chí đã khắc sâu trong tâm trí mọi người.

(Nhà thơ Quang Dũng trong bài thơ Tây Tiến cũng cho ta thấy rõ điều đó:

Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”

Chính điều đó đã giúp ta hiểu được sự quyết tâm của người lính và ta thêm cảm phục sự hi sinh ấy hơn. Tấm lòng của các anh thật cao đẹp và lớn lao biết chừng nào! Đó cũng là hình ảnh chung của những người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp - những con người bình dị mà cũng thật anh dũng, hiên ngang.

+ Cuộc kháng chiến chống Pháp đã giành được thắng lợi vẻ vang với trận Điện Biên Phủ lẫy lừng. Đất nước vẫn chưa được bình yên, cả Miền Nam lại chìm vào máu lửa và những người con của quê hương lại tiếp tục lên đường. Những anh chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn hiện lên trong trang thơ của Phạm Tiến Duật là những anh lính thật ngang tàng, yêu đời, dũng cảm, hóm hỉnh. Từng giây, từng phút, các anh phải đối mặt với nhiều gian khổ và sự ác liệt, dữ dội của bom đạn quân thù hằng ngày trút xuống con đường và nhằm vào những chiếc xe của họ. Những gian khổ và ác liệt hiện hình trong hình ảnh những chiếc xe không kính rồi không cả đèn, cả mui xe, thùng xe có xước, méo mó. Gian khổ tưởng chừng như không thể vượt qua được, cái chết như kề bên, vậy mà lúc nào các anh cũng “ung dung buồng lái ta ngồi. Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng”.

Mở đường Trường Sơn để xe tăng tiến vào phía Nam thực hiện chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử là giai đoạn gay go nhất, ác liệt nhất và cũng hào hùng nhất. Có lẽ chỉ có những chàng trai tuổi trẻ ngạo nghễ ngang tàng kia mới có sức thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng cao cả này. Những chiếc xe tưởng chừng như không thể sử dụng được vậy mà nó vẫn tiến lên phía trước bởi có những nụ cười rất ngang tàng, rất nghịch ngợm của những anh lái xe rất phớt đời:

“Không có kính, ừ thì có bụi.

Bụi phun tóc trắng như người già.

Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc.

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha…”

Bằng sự đồng cảm của một người lính và cảm xúc của một nhà thơ, Phạm Tiến Duật đã xây dựng nên hình ảnh những chiến sĩ lái xe thật hào hùng, thật tếu táo. Cái cử chỉ: “phì phèo châm điếu thuốc” và tiếng cười “ha ha” như một lời thách thức của họ đối với quân thù. Đó là sức mạnh thứ nhất, còn sức mạnh nào nữa khiến cho những chiếc xe ấy vẫn băng băng lên phía trước? Tác giả đã trả lời một cách mạnh mẽ và dứt khoát, trong những chiếc xe không kính có những trái tim yêu nước, luôn hướng về Miền Nam phía trước với là khát vọng cháy bỏng là giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước:

“Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim”

d. So sánh hình ảnh người lính ở hai tác phẩm

*Giống nhau: Qua hình ảnh anh chiến sĩ Trường Sơn, chúng ta chợt nhận ra sự gần gũi, thân quen giữa những người lính qua các thời kì. Từ anh bộ đội cụ Hồ thời kháng chiến chống Pháp trong thơ Chính Hữu đến anh chiến sĩ Trường Sơn thời chống Mĩ trong thơ PTD đều có chung một nét đẹp truyền thống kiên cường, bất khuất, dũng cảm và đầy tinh thần lạc quan yêu đời. Với điều kiện thuận lợi hơn, người lính thời chống Mĩ đã được trau rèn, huấn luyện. Các anh đã kế thừa và phát huy được tinh thần cách mạng vốn đã vững vàng nay lại vững vàng hơn.

* Khác nhau: Tuy cùng khai thác chất liệu thơ từ đời sống thực với những chi tiết thật đến trần trụi của cuộc sống người lính nhưng hai bài thơ còn khác nhau bởi bút pháp và giọng điệu riêng của mỗi tác giả và cảm hứng nổi bật ở mỗi bài. Cảm hứng của Chính Hữu hướng vào vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội của người lính, còn PTD thì lại tập trung làm nổi bật chủ nghĩa anh hùng, tinh thần dũng cảm, bất chấp mọi khó khăn và bom đạn kẻ thù của những người lính lái xe.

e. Đánh giá

Có thể nói rằng “Đồng chí” của Chính Hữu và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là những tác phẩm đặc sắc nhất viết về người lính. Bằng tài năng và tình cảm của mình, hai nhà thơ đã dựng lên một bức chân dung đẹp đẽ về hình ảnh người lính bộ đội cụ Hồ- những con người mộc mạc, bình dị nhưng có rất nhiều những phẩm chất tốt đẹp. Họ xứng đáng trở thành biểu tượng sáng ngời của dân tộc VN anh hùng. Đọc hai bài thơ ấy, ta nhận ra một sự trân trọng đặc biệt của tác giả dành cho những con người quả cảm ấy.

Kết bài

Nhìn lại những chặng đường lịch sử đã đi qua, đọc lại hai bài thơ về người lính qua hai thời kì, trong ta bỗng dấy lên niềm xúc động lẫn tự hào. Hình ảnh những người lính ấy trở nên bất tử và đẹp rực rỡ. Dù lớp bụi thời gian có phủ đầy những trang sách và những đổi mới của cuộc sống làm biến chuyển đi tất cả, nhưng hình ảnh những anh lính cụ Hồ, anh giải phóng quân đến các anh chiến sĩ Trường Sơn vẫn sống mãi trong lòng mọi người với một niềm cảm xúc trào dâng mạnh mẽ.

x
    Nổi bật
        Mới nhất
        7 bài phân tích bài thơ Đồng chí - Chính Hữu - Văn mẫu lớp 9
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO