Kỷ niệm 50 năm Ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển (23.10.1961-23.10.2011): Kỳ tích về một tuyến vận tải biển trong chiến tranh cứu nước

Chính trị - Ngày đăng : 07:56, 21/10/2011

Trước tình hình Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương bị vi phạm do sự can thiệp của Mỹ và sự tàn bạo của Chính phủ bù nhìn của Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam, Hội nghị lần thứ 15 Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khóa II) họp tại Hà Nội...

I. Sự ra đời và phát triển đường HồChí Minh trên biển

Trước tình hình Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương bị viphạm do sự can thiệp của Mỹ và sự tàn bạo của Chính phủ bù nhìn của Ngô ĐìnhDiệm ở miền Nam Việt Nam, Hội nghị lần thứ 15 Ban chấp hành Trung ương Đảng(Khóa II) họp tại Hà Nội, xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giaiđoạn mới, Nghị quyết xác định con đường giải phóng miền Nam là “Conđường cách mạng bạo lực”.

Thực hiện chủtrương của Đảng và Quân ủy Trung ương, tháng 7-1959, Tiểu đoàn 603 (thuộc Đoàn559) được thành lập, có nhiệm vụ nghiên cứu tìm phương thức vận chuyển bằngđường biển chi viện vũ khí cho chiến trường miền Nam, lấy tên là “Tậpđoàn đánh cá Sông Gianh”. Biên chế ban đầu gồm 2 Đại đội, phương tiện vậntải là 4 chiếc thuyền gỗ, mỗi chiếc trọng tải từ 15 đến 20 tấn; thuyền có 2đáy, phía dưới để vũ khí, phía trên để lưới và dụng cụ đánh cá, cải trang thànhthuyền buồm đánh cá miền Nam.

Sau khi chuẩn bị cơ sở vật chất, tinh thần và tậpluyện, cuối năm 1959, Đại đội 1, Tiểu đoàn 603 tổ chức chuyến thuyền vượt biểnđầu tiên. Nhiệm vụ của chuyến vận tải này là chở 5 tấn vũ khí và thuốc chữabệnh cho chiến trường Khu V; địa điểm cập bến là chân đèo Hải Vân; tham giachuyến đầu tiên gồm 6 người. Thuyền khởi hành ngày 27-1-1960, khi vào đến hảiphận phía Namthì do thời tiết xấu, bánh lái hỏng, tàu địch vây ráp… nên để giữ bí mật,thuyền trưởng Nguyễn Bất quyết định phải cho hủy 5 tấn súng đạn và thuốc chữabệnh xuống biển để xóa dấu vết. Các thủy thủ đều bị địch bắt, giam cầm, tratấn; 5 đồng chí đã hy sinh. Chuyến đi đầu tiên không thành công, nhận thấy việcdùng thuyền gỗ, chạy bằng buồm, chở vũ khí vào chiến trường bằng đường biển córất nhiều khó khăn và không an toàn, Quân ủy Trung ương quyết định cho Tiểuđoàn 603 ngừng hoạt động.

Đầu năm 1960, cùng với Phong trào Đồng khởi Bến Tre,cách mạng của các tỉnh đồng bằng Nam Bộ chuyển mạnh lên thế tiến công và trởthành cao trào đồng khởi rộng khắp; trước tình hình đó, yêu cầu về vũ khí trangbị, đạn và thuốc chữa bệnh trở thành vấn đề sống còn, để đáp ứng yêu cầu nhiệmvụ chiến đấu và phát triển lực lượng của các tỉnh Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Yêucầu cấp bách là phải nhanh chóng vận chuyển vũ khí, hàng hóa để chi viện chochiến trường Nam Bộ; lúc này, tuyến đường bộ trên dãy Trường Sơn đã mở và hoạtđộng có hiệu quả, nhưng chưa vươn tới các địa bàn chiến lược đặc biệt quantrọng. Tổng Quân ủy tiếp tục chỉ đạo Bộ Tổng Tham mưu khẩn trương nghiên cứu đềán mới về xây dựng và tổ chức lực lượng vận tải biển chi viện cho chiến trườngNam Bộ và Khu V.

Trong khi chưa có lực lượng để làm nhiệm vụ vậnchuyển trên biển chi viện cho miền Nam, Bộ Chính trị chỉ thị cho Trung ương Cụcmiền Nam chỉ đạo các tỉnh ven biển ở miền Trung và Nam Bộ chủ động chuẩn bịbến, bãi và tổ chức đưa thuyền vượt biển ra miền Bắc, vừa thăm dò, nắm tìnhhình địch, nghiên cứu tuyến vận chuyển trên biển, vừa nhận vũ khí để kịp thờicung cấp cho phong trào đấu tranh cách mạng ở miền Nam đang phát triển.

Giữa năm 1961, tỉnh Bạc Liêu điều hai thuyền ra Bắc.Ngày 7-8-1961, một thuyền đã cập bến tại cửa sông Nhật Lệ (Quảng Bình). Từ đó,từ giữa năm 1961 đến giữa năm 1962, có 5 thuyền của các tỉnh Bạc Liêu, TràVinh, Bến Tre và Bà Rịa đã ra tới miền Bắc để xin chi viện vũ khí cho chiếntrường miền Nam

Những chuyến thuyền từ Nam Bộ vượt biển ra Bắc thànhcông là một trong những cơ sở quan trọng để xúc tiến việc thành lập đoàn vậntải thủy tiếp tế vũ khí cho miền Nam. Ngày 23-10-1961, Bộ Tổng Tưlệnh ra Quyết định số 97/QP do Thứ trưởng Hoàng Văn Thái ký thành lập Đoàn 759vận tải thủy, đồng chí Đoàn Hồng Phước làm đoàn trưởng; lực lượng của Đoàn banđầu có 38 cán bộ, chiến sĩ, trong đó có 20 đồng chí thuộc các thuyền của BếnTre, Trà Vinh và Liên khu V vừa điều ra. Đoàn có nhiệm vụ mua sắm phương tiện,vận chuyển tiếp tế cho chiến trường miền Nam bằng đường biển.

II. Táo bạo -bí mật - bất ngờ, Vậnchuyển chi viện cho chiến trường giai đoạn 1 (1962 -1965), góp phần đánh thắngchiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ

Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị và Quân ủyTrung ương, Đoàn 759 quyết định để thuyền “Bạc Liêu” đi chuyến trinh sát, mởđường từ Bắc vào Nam. Thuyền gồm 6 người do đồng chí Bông Văn Dĩa là Bí thư chibộ phụ trách, đồng chí Hai Tranh là Phó Bí thư chi bộ. Đêm 10-4-1962, thuyềnrời cửa Nhật Lệ (Quảng Bình) đi về hướng nam. Mặc dù cũng bị ­địch vây ráp,nhưng các chiến sỹ của ta đã mưu trí nghi binh nên thoát hiểm; đến ngày18-4-1962, thuyền tới cửa Bồ Đề (thuộc Tân Ân - Ngọc Hiển - Cà Mau); thuyền đivào cửa Rạch Ráng, vào Vàm Lũng; sau thời gian nghiên cứu, khảo sát bến, thuyềnBạc Liêu tiếp tục quay trở ra miền Bắc; chuyến đi trinh sát, mở đường từ Bắcvào Nam đã thành công.

Trung tuần tháng 8-1962, Quân ủy Trung ương thông quaNghị quyết mở đường vận chuyển chiến lược trên biển. Bắt đầu từ đây, Đoàn 759bước vào một giai đoạn vận chuyển mới. Tháng 8-1962, Đoàn 759 nhận bàn giao 4tàu gỗ từ Xưởng đóng tàu I (Hải Phòng) và tiếp nhận bổ sung cán bộ. Đêm11-10-1962, chiếc tàu gỗ đầu tiên chở 30 tấn vũ khí đã rời bến Đồ Sơn (HảiPhòng) lên đường đi Cà Mau. Ngày 19-10 tàu vào bến Vàm Lũng, 30 tấn vũ khí từhậu phương miền Bắc đã được chiến trường miền Nam tiếp nhận an toàn.

Phát huy kết quả của tàu thứ nhất, lần lượt tàu thứhai, thứ ba và tàu thứ tư tiếp tục vượt biển vào bến Cà Mau. Để đảm bảo bí mậtcho tuyến đường vận tải đặc biệt, những chiếc tàu của Đoàn 759 phải cải hoánthành tàu đánh cá, không có số hiệu cố định, xen kẽ, trà trộn vào những đoàntàu đánh cá của ngư dân địa phương trên biển, tên gọi Đoàn tàu không số đượcra đời. 4 chuyến trong hai tháng đã vận chuyển 111 tấn vũ khí cho Khu IX antoàn.

Qua những chuyến tàu vỏ gỗ đi vào Cà Mau thắng lợi,đã khẳng định ta có thể vận chuyển bằng đường biển lâu dài, vì vậy cần phải cónhững phương tiện vận chuyển tốt hơn đi trong mọi thời tiết; Quân ủy Trung ươngchủ trương nhanh chóng đầu tư, trang bị cho Đoàn 759 loại tàu vỏ sắt trọng tảitừ 50 tấn đến 100 tấn.

Ngày 17-3-1963, chiếc tàu vỏ sắt đầu tiên chở 44 tấnvũ khí lên đường và đã vào bến Trà Vinh an toàn. Theo đó, trong năm 1963, Đoàn759 đã tổ chức đi nhiều chuyến chở hàng hóa, vũ khí chi viện cho chiến trườngmiền Nam.Mỗi chuyến ra khơi là mỗi lần thử thách đầy khó khăn, gian khổ, căng thẳng,hiểm nguy đối với cán bộ, chiến sỹ; nhưng nhờ tổ chức tốt, kỷ luật nghiêm, ýthức trách nhiệm cao, tinh thần vững vàng và trình độ chuyên môn giỏi, giữ đượcbí mật… chỉ trong vòng 1 năm, Đoàn 759 đã thực hiện 29 chuyến hàng vào Nam Bộ,vận chuyển 1.430 tấn vũ khí cho chiến trường.

Phát huy kết quả vận chuyển bằng đường biển chi việncho chiến trường Nam Bộ, Bộ Quốc phòng chỉ thị cho Khu VII mở bến đón tàu, đểvận chuyển vũ khí từ miền Bắc vào thẳng chiến trường miền Đông Nam Bộ. Đoàn 759được lệnh chuẩn bị một tàu chở vũ khí đột phá mở đường mới vào bến Bà Rịa; đêm26-9-1963, chiếc tàu gỗ mang số hiệu 41 chở 18 tấn vũ khí xuất phát tại cảngBính Động (Hải Phòng). Để giữ bí mật, tàu phải đi trong mưa bão để tránh tàutuần tiễu, tuần tra của địch; khi tàu tới khu vực đảo Phú Quý thì chuyển hướngvào bến. Mặc dù gặp sự cố, có nguy cơ bị lộ, nhưng cán bộ, chiến sỹ trên đãbình tĩnh, mưu trí, gan dạ và linh hoạt trong xử lý tình huống trước kẻ thù, dođó đã giữ được bí mật tuyệt đối của chuyến đi quan trọng này và chuyến đi mởđường, mở bến chi viện vũ khí cho Khu VII vào Bà Rịa thành công.

Tháng 8-1963, Quân ủy Trung ương quyết định giao Đoàn759 trực thuộc Quân chủng Hải quân. Ngày 29-1-1964, Bộ Quốc phòng quyết địnhđổi phiên hiệu Đoàn 759 thành Đoàn 125. Dưới sự lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếpcủa Đảng ủy, BTL Quân chủng Hải quân, Đoàn 125 đã khẩn trương củng cố tổ chứcvà ổn định mọi mặt; vừa xây dựng, vừa vận chuyển; Đoàn 125 không ngừng trưởngthành và đạt nhiều thành tích mới. Từ năm 1962 đến hết năm 1964, Đoàn 125 đãhuy động 17 tàu vỏ sắt, 3 tàu vỏ gỗ, tổ chức 79 chuyến vận chuyển vũ khí trangbị và cán bộ trung, cao cấp của Đảng và Quân đội vào miền Nam. Số vũ khí, trangbị mà đơn vị vận chuyển trong thời gian này được hơn 4.000 tấn. Tàu của Đoàn đãcập bến Bạc Liêu (Cà Mau) 43 lần, Bến Tre 17 lần, Trà Vinh 14 lần, Bà Rịa 2lần, Phú Yên 2 lần, Bình Định 1 lần. Số vũ khí đã đến được với chiến trường NamBộ, cực Nam Trung Bộ và Khu V đúng lúc, đáp ứng kịp thời sự mong đợi của chiếntrường, trực tiếp góp phần cùng các lực lượng vũ trang Nam Bộ, cực Nam Trung Bộvà Khu V nhanh chóng phát triển thế tiến công, giành nhiều thắng lợi oanh liệtnhư chiến thắng ấp Bắc, Đầm Dơi, Cái Nước, Chà Là, Vạn Tường, Ba Gia, BìnhGiã..., góp phần làm thất bại về căn bản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” củaMỹ – ngụy trên chiến trường miền Nam.

Sau chuyến vận tải vào Khu V thành công, cuối năm1964, Bộ Tổng Tư lệnh quyết định giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Hải quân nghiêncứu mở rộng tuyến vận tải bằng đường biển vào các bến thuộc địa bàn Khu V; lựachọn phương án này, tuy cung đường được rút ngắn, nhưng xuất hiện nhiều khókhăn mới, nhất là việc tìm đặt bến; địa hình ven biển trống trải, các cửa sôngtàu ta có thể vào để giao hàng thì địch đã đóng đồn bốt, ngoài biển thì rađa,tàu chiến, máy bay địch kiểm soát khá cẩn mật.

Sau khi nhận được thông tin về bến, bãi do các tổtrinh sát và cơ quan quân sự địa phương cung cấp, Bộ Tư lệnh Quân chủng Hảiquân đã thông qua phương án vận chuyển do Đoàn 125 đề xuất; đồng thời nhấnmạnh: Các tàu vào ven biển Khu V phải thật khôn khéo lừa địch trên đường hànhtrình, táo bạo, bí mật thọc sâu vào bến, nhanh chóng bốc dỡ hàng xong là rútngay; trường hợp thật đặc biệt mới ở lại ban ngày, nhưng phải chuẩn bị đầy đủkế hoạch và phương án chiến đấu phòng khi bị lộ.

Sau một thời gian phối hợp với Khu V nghiên cứu vàchuẩn bị bến bãi, ngoài bến Vũng Rô (Phú Yên) đã có, các bến Lộ Diêu (BìnhĐịnh), Đạm Tủy (Quảng Ngãi), Bình Đào (Quảng Nam) được khẩn trương chuẩn bị vàsẵn sàng tiếp nhận hàng.

Ngày 21-9-1964, Tàu 401 được lệnh lên đường vào KhuV. Sau 2 lần xuất phát nhưng đều gặp thời tiết xấu, phải quay lại hoặc tránhvào đảo Hải Nam (Trung Quốc), nên ngày 25-10, Tàu tiếp tục hành trình, vượt quasóng gió và sự tuần tra, kiểm soát của địch, sáng ngày 1-11-1964, Tàu cập bếnLộ Diêu giao hàng nhưng bị mắc cạn, phải tiến hành mạo hiểm lấy hàng vào banngày, toàn bộ vũ khí được đưa về vị trí cất giấu an toàn. Tuy nhiên, do tàu bịhỏng nặng không thể khắc phục được, nên ta phải đốt cháy tàu để xóa dấu vết.Tình hình mở bến Lộ Diêu không thuận lợi, nên thực hiện chỉ đạo của cấp trên,Bộ Tư lệnh Hải quân quyết định chọn bến Vũng Rô làm điểm giao hàng cho chiếntrường Phú Yên.

Để thực hiện chuyến đi vào Vũng Rô, Bộ Tư­ lệnh Hảiquân và Đoàn 125 chọn Tàu 41. Ngày 16-11-1964, Tàu 41 chở 45 tấn vũ khí rời bếnBãi Cháy (Hòn Gai, Quảng Ninh); tàu đi được hơn một ngày thì gặp gió mùa đôngbắc, sở chỉ huy chỉ thị cho tàu dừng lại ở đảo Hải Nam (thường gọi là A3) chờlệnh; ngày 26-11, tàu được lệnh tiếp tục hành trình, đến 23 giờ ngày 28-11, tàucập bến Vũng Rô, sau chuyến thứ nhất Tàu 41 được lệnh vào Vũng Rô lần thứ 2,lần thứ 3. Cả 3 chuyến vận chuyển đều thắng lợi, an toàn.

Công việc vận chuyển đang tiến triển thuận lợi thìxảy ra sự kiện Tàu 143 bị lộ ở Vũng Rô. Tàu 143 được lệnh chở 63 tấn vũ khí vàobến Lộ Diêu (Bình Định), nhưng sau đó được lệnh đưa hàng vào bến Vũng Rô (PhúYên). Ngày 16-2-1965, sau khi bốc dỡ hàng hóa tàu quay ra thì tời neo bị hỏng,buộc phải ngụy trang ở lại bến, nhưng bị địch phát hiện, chúng cho máy bay némbom và sử dụng lực lượng bộ binh bao vây hòng tiêu diệt và bắt sống cả người vàtàu của ta; trong trận chiến đấu không cân sức, một số đồng chí bộ đội địaphương bị thương và hy sinh, ta mất một số vũ khí cất giấu chưa kịp chuyển đi.Con đường vận chuyển chiến lược trên biển không còn giữ được bí mật nữa. Biếtrõ ý đồ của ta, địch tăng cường tuần tiễu, kiểm soát chặt chẽ và phong tỏa vùngbiển miền Nam.Việc vận chuyển vũ khí, hàng hóa quân sự chi viện cho chiến trường miền Nambằng đường biển gặp muôn vàn khó khăn, Quân ủy Trung ương quyết định tạm ngừngviệc vận chuyển bằng đường biển vào miền Nam để nghiên cứu phương thức vậnchuyển mới, phù hợp với tình hình.

Để chuẩn bị cho đợt hoạt động Đông - Xuân(1964-1965), Bộ Tư lệnh miền Đông Nam Bộ xin chi viện vũ khí vận chuyển bằngđường biển vào Bà Rịa. Thực hiện Chỉ thị của Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư lệnh Hảiquân lệnh cho Đoàn 125 thực hiện yêu cầu trên. Ngày 29-11-1964, Tàu 56 chở 44tấn vũ khí, nhổ neo và đến 10 giờ đêm 22-12, tàu đã cập bến Lộc An - Sông Ray(Bà Rịa - Vũng Tàu) an toàn.

Năm 1964 là năm mà Đoàn 125 vận chuyển được nhiều vũkhí nhất chi viện cho chiến trường; từ ngày đi chuyến đầu tiên (tháng 10-1962)cho tới đầu năm 1965, Đoàn 125 đã tổ chức trên 90 chuyến, vận chuyển trên 5.000tấn vũ khí cho chiến trường; bao gồm súng đạn, thuốc chữa bệnh và các trang bịquân sự, những chuyến đi và hàng trăm câu chuyện thần kỳ về lòng dũng cảm, đứchy sinh, sự tài trí; là những câu chuyện cảm động về tình đồng đội, về tinhthần vượt khó, chịu đựng gian khổ, thời tiết khắc nghiệt, xông pha nơi hiểmnguy, đối mặt trực diện với kẻ thù; mỗi chuyến đi là một chiến công, kể cảnhững chuyến đi thành công và những chuyến đi chưa thật trọn vẹn. Những sự tíchanh hùng, những huyền thoại của “Đoàn tàu không số”, xâu chuỗi thànhconđường bất tử - Đường Hồ Chí Minh trên biển, mãi mãi lưu truyềntrong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam.


III. Vượt qua thử thách ác liệt,khắc phục khó khăn, tiếp tục vận chuyển chi viện cho chiến trường giai đoạn II,góp phần đánh thắng chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa chiếntranh” của đế quốc Mỹ (1965-1972)

Trong điều kiện yếu tố bí mật, bất ngờ của tuyếnđường không còn; địch bố phòng, kiềm tỏa gắt gao, đường đi mới, xa bờ, quanhiều vùng biển lạ, nguy hiểm; do vậy, công tác chuẩn bị cho chuyến mở đườngphải được tiến hành khẩn trương, chặt chẽ, chu đáo. Đêm 15-10-1965, Tàu 42 chở60 tấn vũ khí nhổ neo, xuất bến; đêm 24-10, Tàu cập bến Rạch Kiến Vàng (Cà Mau)an toàn. Thắng lợi của chuyến đi mở đường của Tàu 42 trong tình hình mới có ýnghĩa vô cùng quan trọng; nó chứng minh cho ý chí quyết tâm liên tục tiến côngchi viện cho miền Nambằng đường biển là hoàn toàn đúng đắn. Tiếp theo Tàu 42, Tàu 69 và Tàu 68 lầnlượt lên đường thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao.

Mặc dù so sánh lực lượng trên biển giữa ta và địch làhết sức chênh lệch, một bộ phận Hạm đội 7 của Mỹ và tàu thuyền của quân độinguỵ Sài Gòn, hệ thống trinh sát, quan sát, cảnh giới tầm xa và tàu địch kendày cùng với lực lượng không quân hỗ trợ tối đa và một bên là lực lượng vận tảinhỏ, trang bị vũ khí thô sơ; nhưng cán bộ, chiến sỹ của Đoàn 125 đã làm nênnhững điều kỳ diệu, luôn đương đầu với địch và vật lộn với sóng to, gió lớn;càng gặp khó khăn nguy hiểm, càng bình tĩnh, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, trêndưới đoàn kết một lòng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong mọi tình huống.

Đêm 30, rạng sáng ngày 1 Tết Mậu Thân (31-1-1968),cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân 1968 của quân và dân ta diễn rađồng loạt trên khắp miền Nam.Để đáp ứng yêu cầu vũ khí cho chiến trường và phân tán sự đối phó của địch, từngày 23 đến 27-2-1968, Bộ Tư lệnh Hải quân quyết định sử dụng 4 tàu: Tàu 165,56, 54 và Tàu 235 lên đường làm nhiệm vụ vận chuyển đặc biệt chi viện cho cuộcTổng tiến công và nổi dậy trên chiến trường miền Nam. Kết thúc giai đoạn vậnchuyển cực kỳ ác liệt, từ tháng 10-1965 đến tháng 3-1968, Đoàn 125 đã tổ chức23 chuyến vận chuyển, trong đó có 5 chuyến thành công, chở 310 tấn vũ khí chochiến trường.

Trước thất bại bằng không quân ở miền Bắc và tổn thấtnặng nề trên chiến trường miền Nam, ngày 31-10-1968, Mỹ tuyên bố ngừng ném bommiền Bắc. Theo chỉ thị của Tư lệnh Quân chủng, Đoàn 125 tham gia Chiến dịch vậnchuyển VT5 (vận chuyển hàng hóa, vũ khí từ Hải Phòng vào Sông Gianh -Quảng Bình), và từ đây hàng hóa, vũ khí sẽ được các lực lượng vận chuyểnvào chiến trường miền Nam bằng đường bộ.

Với phương châm chỉ đạo “Chuẩn bị chu đáo, tranhthủ thời cơ, làm nhanh, gọn, liên tục, an toàn, đi gần bờ, dựa vào dân”, từngày 3-11-1968 đến ngày 29-1-1969, vượt qua hàng rào phong tỏa dày đặc thủy lôivà bom từ trường của Mỹ, Đoàn 125 đã huy động 364 lượt tàu, vận chuyển 21.737tấn hàng, đạt 217,37% kế hoạch; đến cuối tháng 1 năm 1969, Đoàn 125 kết thúcđợt 1 Chiến dịch vận chuyển VT5.

Tháng 2-1969, Đoàn 125 tiếp tục Chiến dịch vận chuyểnVT5, với 187 chuyến tàu, vận chuyển 10.889 tấn hàng hóa, vượt chỉ tiêu 1.000tấn, góp phần chi viện cho chiến trường, đặc biệt là chiến trường Thừa Thiên -Huế và Mặt trận Khu V.

Tháng 7-1969, sau khi rút kinh nghiệm, tìm ra nguyênnhân của những chuyến đi thành công và không thành công, Đoàn 125 sử dụng Tàu42 cải trang thành tàu nghiên cứu biển, đi trinh sát để tìm phương thức vậnchuyển mới. Đây là chuyến đi rất quan trọng nhằm thăm dò tình hình địch phongtỏa trên biển, mở đường mới, tìm bến mới và những thông tin cần thiết khác. Từkết quả của chuyến đi trinh sát, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng nhận địnhtình hình và quyết định chuẩn bị đợt vận chuyển lớn vào chiến trường Khu V, KhuVI, Khu VIII, Khu IX.

Thực hiện chủ trương của Quân ủy Trung ương và BộQuốc phòng, năm 1970, Đoàn 125 đã tổ chức 17 chuyến đi, song chỉ có 5 chuyếnvào được bến, 10 chuyến gặp địch tuần tra, kiểm soát gắt gao, để giữ bí mật củacon đường chiến lược, đành phải quay về.

Từ tháng 10-1971 đến tháng 4-1972, Đoàn tổ chức liêntục 15 chuyến, kết quả tuy còn hạn chế, nhưng có ý nghĩa quan trọng, đưa hàngvào bến mới thành công. Có thể nói, từ năm 1971 đến năm 1972 là giai đoạn cánbộ, chiến sỹ Đoàn 125 phải đối mặt với những thử thách gay go, ác liệt; trongđội ngũ trung kiên của Đoàn xuất hiện nhiều tấm gương hy sinh anh dũng. Ngày12-4-1972, Tàu 645 rời bến, nhưng đến ngày 23-4, gặp địch, buộc phải quay ravùng biển quốc tế, tàu khu trục của địch phát hiện và kèm sát tàu ta với ý đồbắt sống Tàu 645. Biết là không thể thoát hiểm, thiếu úy, chính trị viên NguyễnVăn Hiệu đã cho các chiến sỹ rời tàu, còn mình thì đánh lạc hướng địch rồi điểmhỏa, hủy tàu và hy sinh.

Nhìn lại chặng đường mười năm (từ năm 1961 đến năm1972) làm nhiệm vụ vận chuyển vũ khí, hàng hóa và lực lượng chi viện cho chiếntrường miền Nam, Đoàn 125 đã tổ chức gần 600 chuyến tàu, vận chuyển gần 33.000tấnhànghóa, vũ khí các loại, kịp thời chi viện cho chiến trường. Mười năm vận chuyểnlà mười năm kiên gan bền bỉ của đội ngũ cán bộ, chiến sỹ Đoàn 125; nhiều contàu ra đi không trở lại, nhiều đồng chí, đồng đội đã vĩnh viễn yên nghỉ nơibiển cả mênh mông. Đếm sao hết số lần phải thi gan, đấu trí với địch; kể saohết những tấm gương dũng cảm, đức hy sinh cao quý; mỗi lần ra đi là một lầnquyết tử, gặp địch là sẵn sàng chiến đấu, chấp nhận hủy tàu, sẵn sàng hy sinhđể bảo vệ bí mật con đường. Địch chăng lối này, ta mở lối đi khác; phương thứcnày không thành, ta tìm ra phương thức khác… Con đường vận chuyển trên biển trởthành một kỳ tích, huyền thoại,góp phần cùng quân và dân miền Nam đánh thắng Chiến lược “Chiến tranh cục bộ”và “Việt Namhóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ.


IV. Tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh,giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (1973 - 1975)

Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, Đoàn 125 tiếp tụccủng cố tổ chức, xây dựng lực lượng, thành lập thêm tiểu đoàn, tiếp nhận tàumới, tăng cường huấn luyện nâng cao trình độ mọi mặt và rèn luyện ý chí chiếnđấu cho cán bộ, chiến sỹ, sẵn sàng lên đường khi có lệnh.

Đầu năm 1973, Đoàn nhận nhiệm vụ vận chuyển 3.000 tấnvũ khí vào Khu IV trên tuyến đường từ Hải Phòng đến Sông Gianh, Quảng Bình; vớitinh thần trách nhiệm cao, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, trong 63 ngày đêm liêntục, Đoàn đã vận chuyển trên 4.000 tấn hàng vào các binh trạm của Cục Vận tảiquân sự thuộc Tổng cục Hậu cần ở nam Khu IV.

Quý II/1973, Đoàn nhận nhiệm vụ vận chuyển 12.000 tấnhàng vào Quảng Bình cho Binh trạm 30 và 19. Đoàn đã tổ chức 161 chuyến tàu, vậnchuyển 11.365 tấn hàng vào nam Khu IV an toàn. Đầu tháng 11-1973, Đoàn phối hợpvới một số đơn vị, vận chuyển 26 xe cơ giới, 16 máy kéo cho Khu V và căn cứ K5qua cảng Đông Hà, Quảng Trị. Tiếp đó, năm 1974, Đoàn vận chuyển 15.000 tấn hàngtừ Hải Phòng vào Nhật Lệ, Quảng Bình và từ Hải Phòng vào Cửa Việt, Quảng Trị.Trong 2 năm 1973-1974, Đoàn đã huy động 380 lượt tàu ra khơi, chuyên chở trên43 nghìn tấn hàng, đưa 2.042 lượt cán bộ, chiến sỹ từ hậu phương ra tiền tuyếnvà từ đất liền ra các đảo, vượt qua chặng đường 158.292 hải lý an toàn.

Cuối năm 1974, tình hình chiến trường miền Nam chuyển biếnmau lẹ có lợi cho ta, Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị cho Đoàn 125 vận chuyển vũ khívà bộ đội vào sâu hơn nữa, sát hơn nữa nơi ta mở chiến dịch càng tốt.

Thực hiện chủ trương của Bộ Tổng tham mưu, Đoàn 125huy động toàn bộ lực lượng thực hiện đợt vận chuyển binh lực đột kích chủ yếuvào chiến trường (mật danh T5) và vận chuyển phục vụ Chiến dịch Hồ Chí Minhlịch sử với tinh thần Thần tốc, táo bạo chở người và vũ khí vào mặttrận. Trong tháng 3 và tháng 4-1975, Đoàn đã vận chuyển 17.473 cán bộ,chiến sĩ các đơn vị chủ lực vào chiến trường, 40 xe tăng và 7.786 tấn vũ khí,nhiên liệu..., góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Ngày 4-4-1975, Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị cho Quânchủng Hải quân khẩn trương chuẩn bị lực lượng để giải phóng các đảo thuộc quầnđảo Trường Sa do Quân đội Sài Gòn đóng giữ. Quyết tâm của Đảng ủy, Bộ Tư lệnhHải quân là bám sát tình hình, tranh thủ thời cơ có lợi giải phóng đảo; kiênquyết không để lực lượng khác lợi dụng tình hình đánh chiếm đảo trước ta.

Thời gian lúc này là lực lượng, Đoàn 125 nhanh chóngthành lập một biên đội gồm 3 tàu: Tàu 673, 674, 675 hành quân từ Hải Phòng vàoĐà Nẵng chở Đoàn 126 Bộ đội Đặc công Hải quân và một bộ phận của Tiểu đoàn 471Đặc công Quân khu V ra giải phóng đảo. Từ ngày 14 đến ngày 29-4-1975, các lựclượng của ta đã nhanh chóng giải phóng và tiếp quản các đảo Song Tử Tây, SơnCa, Nam Yết, Sinh Tồn và Trường Sa; tiếp đó, Đoàn 125 tham gia giải phóng mộtsố đảo ở miền Trung và vùng biển Tây Nam. Như vậy, trong 80 ngày đêm hoạt độngkhẩn trương, liên tục, tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, Đoàn đã tổ chức143 lần chiếc tàu ra khơi, hành trình 65.721 hải lý, vận chuyển 18.741 cán bộ,chiến sĩ, 8.721 tấn vũ khí, 50 xe tăng và các loại súng, pháo, đánh chìm 1 tàuPCF, đánh hỏng nặng 3 tàu khác, gọi hàng 1 tàu, bắt 42 tù binh, trực tiếp góp phầnđưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc đến thắng lợi hoàn toàn.

Đường Hồ Chí Minh trên biển đã hoàn thành trọn vẹn vàđặc biệt xuất sắc nhiệm vụ chi viện chiến lược cho chiến trường miền Nam. Từ 1961đến 1975, cán bộ, chiến sỹ trên tuyến vận tải biển đã vượt qua muôn vàn giankhổ, khắc phục khó khăn, mưu trí, dũng cảm, táo bạo; vượt qua sóng to, gió lớn;vượt qua sự phong tỏa ác liệt, vây ráp gắt gao của kẻ thù. Hàng trăm lượt tàuđã ra khơi, hàng ngàn tấn vũ khí, hàng hóa, thuốc chữa bệnh và hàng chục ngànlượt người đã từ hậu phương lớn vào tiền tuyến lớn, trực tiếp góp phần cùngtoàn dân đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn.

Cùng với Đường Hồ Chí Minh trên dãy Trường Sơn, ĐườngHồ Chí Minh trên biển là một nét độc đáo, đặc sắc, sáng tạo của đường lối chiếntranh nhân dân, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng cộng sản Việt Nam và Chủtịch Hồ Chí Minh; trở thành biểu tượng tự hào của cả dân tộc Việt Nam, hiệnthân của ý chí khát vọng độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc; là trí tuệ, ýchí quyết chiến, quyết thắng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong cuộckháng chiến chống Mỹ, cứu nước; trong đó cán bộ, chiến sỹ Hải quân nhân dânViệt Nam, mà trực tiếp là Đoàn 759 trước đây, Đoàn vận tải quân sự 125 và Lữđoàn 125 ngày nay là lực lượng nòng cốt.

Thời gian sẽ qua đi, nhưng huyền thoại về Đường HồChí Minh trên biển vẫn mãi mãi ngời sáng trong trang sử oanh liệt của dân tộcta như một thiên anh hùng ca bất tử, tô thắm truyền thống đánh giặc, giữ nướccủa dân tộc, Quân đội và Quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng, tiếpthêm sức mạnh cho mọi thế hệ phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng vàbảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.