Diệt "giặc dốt" – Bài học cần được vận dụng linh hoạt
Chính trị - Ngày đăng : 09:10, 05/09/2016
Trước tình thế ngàn cân treo sợi tóc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định đúng nguy cơ của giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Đối với giặc dốt, Người chỉ rõ, khi hơn 90% nhân dân mù chữ thì nhiệm vụ diệt giặc dốt cũng cấp thiết như diệt giặc đói, giặc ngoại xâm, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: “Dốt thì dại, dại thì hèn; vì không chịu dại, không chịu hèn cho nên thanh toán nạn mù chữ là một trong những việc cấp bách và quan trọng của nhân dân các nước dân chủ mới”. Người cho rằng: “phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”, Người còn khẳng định: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”.
Vì thế, ngay sau khi giành chính quyền về tay nhân dân, một ngày sau đó, ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu vấn đề giáo dục, chống giặc dốt là nhiệm vụ cấp bách của chính quyền mới. Chưa đầy một tuần sau đó, ngày 8/9/1945, Người ký ba Sắc lệnh về việc thành lập Nha Bình dân học vụ; Sắc lệnh quy định mọi làng phải có lớp học bình dân và Sắc lệnh cưỡng bức học chữ quốc ngữ không mất tiền. Và sau đó, khóa huấn luyện cán bộ bình dân học vụ đầu tiên mang tên Hồ Chí Minh đã được mở tại Hà Nội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên theo dõi một cách sâu sát mọi diễn biến của công tác xóa mù chữ trong từng địa phương. Người chủ trương rất cụ thể: Không có giấy thì viết vào cát, không có bút thì dùng lô tre… cả làng chung gạo nuôi một thầy giáo. Người đọc rất kỹ cuốn “Phương pháp và cách thức dạy vỡ lòng chữ quốc ngữ” do Nha Bình dân học vụ xuất bản. Người đã tự tay viết vào cuốn sách dòng chữ: “Anh chị giáo viên bình dân học vụ cố gắng đọc kỹ sách này rồi tận tâm dạy bảo đồng bào thất học, làm cho nạn mù chữ chóng hết. Thế là làm tròn nhiệm vụ thiêng liêng của mình đối với Tổ quốc”.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào diệt giặc dốt nhanh chóng được triển khai. Bấy giờ với những hình thức tổ chức hết sức linh hoạt, thích nghi với điều kiện sinh hoạt thời chiến của nhân dân lao động. Bình dân học vụ trở thành một phong trào quần chúng thực sự. Người học từ trẻ em đến thanh niên nam nữ và cả các cụ già.
Giáo viên, ngoài các thầy giáo và phần nhiều là cán bộ các ngành, là học sinh, bộ đội và cả những người vừa thoát nạn mù chữ, ai đọc thông viết thạo đều có thể trở thành giáo viên bình dân học vụ. Lớp học là trụ sở các trường học, cơ quan chính quyền, doanh trại quân đội, nhà của dân, đình, chùa… Không chỉ dạy cho dân biết đọc, biết viết, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo bình dân học vụ còn phải dạy cho đồng bào kiến thức khoa học thường thức, nâng cao dần trình độ dân trí.
Chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc Việt Nam, việc học được mọi người nhận thức và thực thi như một nghĩa vụ công dân, như một hành động yêu nước (diệt giặc dốt). Nhờ đó, chỉ một năm sau ngày phát động phong trào bình dân học vụ, đã có 75.000 lớp học được tổ chức với sự tham gia của 95.000 giáo viên; trên 2,5 triệu người đã biết đọc, biết viết (dân số nước ta lúc đó là 22 triệu người).
Sau ba năm, từ tháng 9/1945 đến tháng 9/1948 đã có gần 8 triệu người thoát nạn mù chữ. Một kỷ lục vĩ đại trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, gian khổ những năm đầu giành chính quyền và chuẩn bị bước vào kháng chiến chống thực dân Pháp. Đây không chỉ là một kỳ tích, mà còn là một bài học để chúng ta suy ngẫm về vấn đề giáo dục hiện nay.