Tín dụng xanh – Bài 3: Chuyện 'khóc - cười' khi tiếp cận nguồn vốn
Thuế - Tài chính - Ngày đăng : 14:25, 30/05/2025
Rào cản và tiêu chuẩn ngặt nghèo khi tiếp cận nguồn vốn
Tín dụng xanh được kỳ vọng sẽ là “phao cứu sinh” để mở rộng sản xuất, chuyển đổi công nghệ và gia tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế cho doanh nghiệp nội địa. Tuy nhiên, khi tiếp cận dòng vốn này đã không ít doanh nghiệp rơi vào tình cảnh “tiến thoái lưỡng nan” trước những rào cản và tiêu chuẩn.
Trong bối cảnh hiện này, việc chuyển đổi xanh đang là xu thế không thể đảo ngược, được Đảng và Nhà nước khái quát cao trong chủ trương, những cam kết hành động và sự đồng hành đến từ các tổ chức tín dụng và nhiều doanh nghiệp.
Trong khi, Ngân hàng Nhà nước đã có các chỉ đạo quyết liệt, tổ chức tín dụng “tiền hô, hậu ủng”, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng đầu, đặc biệt trong ngành dệt may, da giày, gỗ, thủy sản, năng lượng, nông nghiệp… đã sớm nhận thấy tầm quan trọng của phát triển bền vững với những tiêu chuẩn về môi trường, xã hội, quản trị (ESG). Nhiều khách hàng quốc tế yêu cầu minh bạch về phát thải, sử dụng năng lượng tái tạo, tuần hoàn nước thải, bao bì sinh học đối với các sản phẩm xuất nhập.

Theo chia sẻ của lãnh đạo một công ty may mặc: “Nếu không đạt tiêu chuẩn môi trường, chúng tôi sẽ mất đơn hàng từ các chuỗi bán lẻ lớn ở EU và Mỹ. Vì vậy, chúng tôi đầu tư hệ thống xử lý nước thải, pin mặt trời áp mái và dùng vật liệu tái chế.”
Thị trường EU sẽ áp dụng Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) từ năm 2026, yêu cầu các mặt hàng như thép, xi măng, phân bón, nhôm… khi nhập vào EU phải kê khai và nộp phí phát thải CO₂ tương đương tiêu chuẩn châu Âu. Điều này được một doanh nghiệp thép ở Hải Dương từng xuất khẩu sang Đức cho biết từ năm 2024, đối tác yêu cầu báo cáo định kỳ lượng CO₂ phát thải trên mỗi tấn sản phẩm, kèm theo chứng nhận về nguồn năng lượng sử dụng (ưu tiên năng lượng tái tạo).
Hay chuỗi siêu thị Coop, E.Leclerc, Carrefour tại Pháp yêu cầu nhà cung cấp rau quả từ Việt Nam phải chứng minh sản phẩm không sử dụng thuốc trừ sâu cấm, có chứng nhận trồng trọt bền vững (GlobalG.A.P., Rainforest Alliance…), và sử dụng bao bì có khả năng phân hủy sinh học. Các thương hiệu thời trang quốc tế như H&M, Nike, Adidas yêu cầu đối tác tại Việt Nam có chính sách lao động rõ ràng, không sử dụng lao động trẻ em, không phân biệt đối xử, có báo cáo an toàn lao động định kỳ.
Ngay cả những định chế tài chính quốc tế lớn như IFC, ADB, World Bank, khi cấp vốn cho các dự án tại Việt Nam, yêu cầu doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản trị nội bộ minh bạch, có cơ chế kiểm soát rủi ro, đánh giá tác động môi trường và xã hội, cùng những tuân thủ các tiêu chuẩn như IFC Performance Standards. Điều này đã được một doanh nghiệp năng lượng tái tạo tại Ninh Thuận khi tiếp cận vốn từ ADB đã phải thuê đơn vị tư vấn quốc tế xây dựng báo cáo đánh giá rủi ro xã hội (ảnh hưởng đến cộng đồng, di dời dân cư…) theo tiêu chuẩn của IFC.
Theo đó, các doanh nghiệp này để có vốn thì cách tốt nhất là tìm đến các gói tín dụng xanh của ngân hàng và các tổ chức tín dụng, hay tiếp cận với dòng vốn xanh từ các chương trình hỗ trợ của ADB, WB. Tuy nhiên nhiều doanh nghiệp lại “khóc” vì không “đủ chuẩn”, trong đó phải kể đến là phần lớn doanh nghiệp vừa và nhỏ đều gặp khó khăn lớn khi tiếp cận tín dụng xanh.

Ngay cả việc nhiều doanh nghiệp dù có ý tưởng tốt, sản phẩm thân thiện môi trường nhưng vẫn bị đánh rớt hồ sơ vì thiếu báo cáo tài chính minh bạch, không có chứng chỉ môi trường, hoặc chưa có đơn vị thứ ba kiểm định dự án. Khái niệm “xanh” tuy rõ trong chủ trương, nhưng lại mơ hồ trong thực thi tại các ngân hàng, nơi còn thiếu năng lực phân tích rủi ro môi trường và xã hội. Chưa kể, là việc một số tổ chức tín dụng còn lúng túng khi gặp hồ sơ “xanh” theo đó để đảm bảo an toàn thì đành phải “né”.
Theo đó, gánh nặng lại tiếp tục dồn lên doanh nghiệp, một mặt chịu áp lực chuyển đổi xanh từ thị trường nhưng lại không được hỗ trợ đủ về chính sách tài chính. Trong khi đó, ngân hàng cũng khó mạo hiểm với những khoản vay chưa rõ chuẩn mực, thiếu tiêu chí và nỗi lo nợ xấu, khiến tín dụng xanh chưa tạo được sức lan tỏa toàn thị trường.
Bên cạnh đó, các thủ tục hành chính và pháp lý còn rườm rà, đặc biệt với doanh nghiệp triển khai dự án năng lượng tái tạo hoặc xây dựng xanh. Việc xin giấy phép đầu tư, đất đai, thẩm định môi trường kéo dài hàng năm khiến họ “đuối” thậm chí “chết yểu” trước khi được “bơm vốn”. Và câu chuyện “cười ra nước mắt” sẽ còn tiếp diễn, nếu hệ sinh thái tài chính xanh không được xây dựng theo đúng nghĩa.
Mạnh mẽ vào cuộc gỡ “nút thắt” để "giải" cơn khát vốn
Trước những tác động ngày càng rõ nét của biến đổi khí hậu, vấn đề về suy thoái môi trường đến phát triển kinh tế và ổn định xã hội, tăng trưởng xanh không còn là một lựa chọn mà đã trở thành một yêu cầu cấp thiết đối với các quốc gia trên thế giới - đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam. Thời gian qua, ngành Ngân hàng đã không ngừng chuyển đổi số, lồng ghép mục tiêu tăng trưởng xanh vào chiến lược kinh doanh, tích cực huy động nguồn lực tham gia tài trợ vốn cho các lĩnh vực xanh, từ đó tăng dần quy mô và tốc độ dư nợ tín dụng xanh.
Ngân hàng Nhà nước đã xác định vai trò quan trọng của nguồn vốn tín dụng ngân hàng thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia nên đã vào cuộc rất sớm. Đặc biệt, năm 2023, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục ban hành Kế hoạch hành động của toàn Ngành triển khai Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030 và các đề án về chống biến đổi khí hậu của Việt Nam, với 7 nhóm nhiệm vụ đồng bộ, toàn diện cho các đơn vị vụ, cục, chi nhánh của NHNN và các tổ chức tín dụng (TCTD).
Theo đó, tốc độ tăng trưởng bình quân của dư nợ tín dụng xanh giai đoạn 2017 - 2024 đạt trên 21%/năm, vượt xa tốc độ tăng trưởng tín dụng chung của toàn Ngành, với tổng dư nợ được đánh giá đạt hơn 3,6 triệu tỉ đồng, tăng gấp hơn 15 lần so với năm 2017. Nhiều ngân hàng đã thành lập Ban Chỉ đạo chuyển đổi xanh, tích hợp tiêu chí tăng trưởng xanh vào chiến lược kinh doanh, đồng thời công bố báo cáo phát triển bền vững, gia tăng tính minh bạch, giải trình và khẳng định vị thế trên thị trường tài chính - tín dụng quốc tế.
Đáng chú ý, Việt Nam đang ngày càng chú trọng đến việc phát triển nông nghiệp bền vững, Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) - Đoàn Ngọc Lưu cho biết, Agribank có tỉ trọng tài trợ dự án xanh trong tổng dư nợ tín dụng tăng từ 0,9% năm 2020 lên 1,7% năm 2024. Quý I/2025, Agribank tiếp tục dẫn đầu về số lượng khách hàng được cấp tín dụng thuộc lĩnh vực xanh với hơn 41.600 khách hàng và tổng dư nợ đạt gần 29.300 tỉ đồng.

Tuy nhiên, Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước đã nhìn thẳng vào thực tế và nhấn mạnh rằng, việc triển khai Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng còn không ít khó khăn như việc triển khai thiếu đồng bộ, đồng đều, nhiều Tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại chưa báo cáo Ngân hàng Nhà nước, chưa phát sinh tín dụng dư nợ tín dụng xanh; kết quả tín dụng xanh chưa cao mặc dù còn nhiều dư địa phát triển, do thiếu khung pháp lý về danh mục xanh; công cụ thẩm định rủi ro còn hạn chế, thời gian hoàn vốn của dự án đầu tư xanh dài, hiệu quả tài chính chưa rõ ràng; việc huy động nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực tài chính xanh quốc tế còn hạn chế.
Theo như Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) – Trần Phương chia sẻ, Chính phủ chưa ban hành quy định về tiêu chí môi trường và việc xác nhận đối với dự án được cấp tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh; chưa có các cơ chế, chính sách ưu đãi, khuyến khích cụ thể đối với việc cấp tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh; phần lớn vốn huy động ngắn hạn, trong khi các dự án môi trường có thời gian hoàn vốn dài, đầu tư lớn; hệ thống thông tin quản lý và các công cụ hỗ trợ kiểm soát, giám sát danh mục xanh và ESG còn hạn chế do khung pháp lý chưa hoàn thiện.
Bên cạnh đó là yêu cầu ngày càng cao về quản trị, chất lượng nguồn nhân lực ngân hàng trong lĩnh vực môi trường, xã hội, khí hậu để nhận diện, thẩm định quản lý, giám sát khoản cấp tín dụng cũng như tư vấn, hỗ trợ khách hàng đáp ứng các tiêu chí mới của quốc tế về phát thải… Để giải quyết những khó khăn này không chỉ có sự nỗ lực của ngành Ngân hàng mà cần phối hợp đồng bộ các cơ quan quản lý Nhà nước, sự hỗ trợ chia sẻ kinh nghiệm và nguồn lực của các tổ chức quốc tế, tăng cường hợp tác quốc tế tạo nguồn vốn cho tín dụng xanh./.