Chiến thắng Đức Lập - Ý nghĩa chiến lược cho chiến dịch Tây Nguyên
Nguyễn Thị Hiền XB•09/03/2025 07:43
Chiến thắng Đức Lập (9/3/1975) đã tạo đà, đẩy mạnh khí thế tiến công và nổi dậy của toàn chiến trường, mở ra một bước ngoặt quan trọng trong Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Chiến thắng Đức Lập (9/3/1975) đã tạo đà, đẩy mạnh khí thế tiến công và nổi dậy của toàn chiến trường, mở ra một bước ngoặt quan trọng trong Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Bộ đội truy kích địch trong chiến dịch Tây Nguyên (Ảnh: Báo Quân đội Nhân dân)
Từ ngày 30/9 đến 8/10/1974, Hội nghị Bộ Chính trị đã họp và cơ bản nhất trí với nội dung dự thảo Kế hoạch chiến lược do Cục Tác chiến chuẩn bị. Đồng thời, quyết định mở cuộc tổng tiến công, nổi dậy cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng phát triển đến mức cao nhất, đánh đổ nguỵ quyền, giành toàn bộ chính quyền về tay Nhân dân, giải phóng hoàn toàn miền Nam, tiến tới thống nhất nước nhà. Bộ Chính trị yêu cầu phải tiến hành mọi công việc chuẩn bị thật khẩn trương, tạo điều kiện và cơ sở vật chất đầy đủ nhất để đánh mạnh, đánh nhanh, thắng gọn và thắng triệt để trong hai năm 1975 - 1976.
Từ ngày 18/12/1974 - 7/1/1975, Bộ Chính trị họp Hội nghị đợt 2 mở rộng có các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy từ chiến trường ra tham dự. Đúng lúc này, tin thắng lợi Đường 14 - Phước Long báo về chính quyền Sài Gòn không còn đủ sức chống chọi với Quân Giải phóng. Mỹ không thể đưa quân can thiệp trở lại miền Nam Việt Nam.
Quân Giải phóng đánh chiếm sở chỉ huy sư đoàn 23 ngụy trong trận Buôn Ma Thuột, tháng 3/1975 (Ảnh tư liệu)
Từ đó, Bộ Chính trị đã nhanh chóng thông qua quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976. Đồng thời dự kiến: Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam và quyết định chọn Tây Nguyên là hướng tiến công chủ yếu trong năm 1975.
Hội nghị Bộ Chính trị đã chỉ ra: Chiến trường Khu V, Tây Nguyên, dùng ba sư đoàn quân chủ lực đánh Tây Nguyên, mở thông hành lang nối liền Nam Tây Nguyên với Đông Nam Bộ, tạo điều kiện để bộ đội chủ lực cơ động nhanh vào miền Đông, phối hợp với quân chủ lực tiến đánh Sài Gòn. Đồng thời, mở trận đầu đánh chiếm Buôn Ma Thuột, thọc thẳng xuống Tuy Hòa, Phú Yên, cắt đồng bằng Khu V ra làm đôi, tạo thêm một hướng nữa để tiến nhanh vào phía Nam vây ép Sài Gòn.
Tại Đức Lập, địch xây dựng trại giam và các cứ điểm quân sự mạnh (Ảnh tư liệu)
Thực hiện quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị, tháng 1/1975, Thường trực Quân ủy Trung ương họp quán triệt và quyết định mở Chiến dịch Tây Nguyên (mang mật danh 275). Để tiến hành chiến dịch, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên do Trung tướng Hoàng Minh Thảo làm Tư lệnh. Bộ phận đại diện của Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh do Đại tướng Văn Tiến Dũng chủ trì cũng được đặt tại Tây Nguyên để trực tiếp chỉ đạo chiến dịch.
Ảnh tư liệu
“
Đến ngày 10/3, ta làm chủ hoàn toàn căn cứ điểm Đắk Song, Đắk Sắk. Tuyến phòng thủ Đức Lập phía Tây Nam Buôn Ma Thuột hoàn toàn bị tiêu diệt. Ta loại khỏi vòng chiến đấu 1 tiểu đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn bảo an, bắt sống hơn 100 quân địch, thu 14 pháo và 20 xe tăng, thiết giáp.
Nhiệm vụ chủ yếu mà Bộ Chính trị và Quân ủy giao ngày 21/1/1975 là tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch (diệt Sư đoàn 23, đánh thiệt hại nặng Quân đoàn 2 ngụy), giải phóng các tỉnh Đắk Lắk, Phú Bổn, Quảng Đức. Mục tiêu then chốt là thị xã Buôn Ma Thuột và ba quận lỵ Đức Lập, Cẩm Ga, Kiến Đức, mở rộng hành lang, nối liền Tây Nguyên với miền Đông Nam Bộ, thực hiện chia cắt chiến lược, tạo cục diện mới về chiến lược.
Căn cứ vào nhiệm vụ được giao, Bộ Tư lệnh chiến dịch xác định, hướng và khu vực tác chiến chủ yếu là Buôn Ma Thuột - Đức Lập; mục tiêu đánh mở đầu là Đức Lập, mục tiêu chủ yếu quyết định là thị xã Buôn Ma Thuột.
Đức Lập được xác định là mục tiêu nằm trong hướng tiến công mở đầu và chủ yếu của chiến dịch Tây Nguyên. Đây là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng cả về quân sự, kinh tế, chính trị, được xem như “cánh cửa thép” khống chế Nam Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và vùng biên giới Campuchia; ngăn chặn tuyến chi viện Trường Sơn cho chiến trường miền Nam và làm căn cứ xuất kích đánh phá cách mạng của ta.
Đồi Trung Đoàn, xã Đắk Lao, huyện Đắk Mil là trận địa pháo 105 ly của địch trong chiến trường Đức Lập. Ngày nay đồi Trung Đoàn đã được phủ một màu xanh của cây trái
Tháng 3/1975, trong Chiến dịch Tây Nguyên, Đức Lập được chọn là điểm mở đầu, then chốt để tiến công giải phóng Buôn Ma Thuột. Tại Đức Lập, địch đã cho xây dựng 5 cứ điểm quân sự mạnh và các tuyến giao thông liên tỉnh, liên huyện, thiết lập một sân bay dã chiến tại Đắk Sắk.
Địch thường xuyên cho máy bay thị sát, thăm dò, theo dõi mọi hoạt động của ta; tăng cường mạng lưới an ninh, cảnh sát, gián điệp ngầm nhằm đánh phá, đánh sâu vào vùng giải phóng, cô lập lực lượng ta ở vùng căn cứ Nâm Nung.
Núi lửa Thuận An từng là cứ điểm quan trọng của địch trong chiến trường Đức Lập. 50 năm trước nơi đây diễn ra các trận đánh ác liệt và thắng lợi vẻ vang thuộc về quân và dân ta
Trong trận này, Thiếu tướng Vũ Lăng, Phó Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên đã dẫn đầu đoàn cán bộ đi trinh sát Đức Lập. Sư đoàn Bộ binh 10 là đơn vị bộ đội chủ lực được giao nhiệm vụ tấn công Đức Lập. Lực lượng tham gia của Sư đoàn Bộ binh 10 (thiếu 1 trung đoàn), 1 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn đặc công và một số phân đội bảo đảm khác.
Lực lượng vũ trang địa phương của tỉnh Đắk Lắk có 2 tiểu đoàn (301, 401), 1 đại đội hỏa lực, 2 đại đội độc lập (303, 323). Bộ đội các huyện có 380 đồng chí, 4 huyện có trung đội tập trung, 6 huyện có các đội vũ trang công tác cùng 1.250 du kích. Tỉnh cũng huy động 1.835 cán bộ, nhân viên các cơ quan kết hợp thành các tổ hoạt động tuyên truyền.
Thuận An là khu vực đồn trú phía Nam của quân địch tại Đức Lập. Giờ đây Thuận An trở thành vùng sản xuất cà phê ứng dụng công nghệ cao nổi tiếng của huyện Đắk Mil
Vào lúc 5h55' ngày 9/3/1975, pháo lớn của Sư đoàn 10 dồn dập nã vào căn cứ chỉ huy hành quân của Sư đoàn 23 ngụy, căn cứ Núi Lửa và quận lỵ Đức Lập. Sau 90 phút, bộ binh của ta tập trung tiến công địch ở hầu hết các vị trí quan trọng của địch trên tuyến Đức Lập - Đắk Song. Sau một thời gian ngắn hoảng hốt, địch bắt đầu tổ chức phản kích, giằng co ác liệt.
Đến 7h30', ta mở cuộc tấn công mới, đè bẹp mọi sự kháng cự của địch và chỉ sau một giờ đồng hồ, quân ta hoàn toàn làm chủ quận lỵ Đức Lập; bắt sống 50 tù binh, trong đó Trung tá Quận trưởng. Đúng vào lúc 9h30' ngày 9/3, căn cứ chỉ huy hành quân của Sư đoàn 23 - một vị trí quan trọng bậc nhất của địch ở Đức Lập đã bị tiêu diệt. Cũng thời điểm này, Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 28 được lệnh phát triển phối hợp với Tiểu đoàn 2, Trung đoàn Đặc công 198 đánh chiếm căn cứ Đắk Song - một vị trí án ngữ trên Đường 14 do Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 53 ngụy chiếm giữ.
Sân bay Thọ Hoàng là căn cứ không quân quan trọng của địch ở Đức Lập nói riêng, Tây Nguyên nói chung. Khu vực này giờ đây đã trở thành khu dân cư sầm uất
Đến ngày 10/3, ta làm chủ hoàn toàn căn cứ điểm Đắk Song, Đắk Sắk. Tuyến phòng thủ Đức Lập phía Tây Nam Buôn Ma Thuột hoàn toàn bị tiêu diệt. Ta loại khỏi vòng chiến đấu 1 tiểu đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn bảo an, bắt sống hơn 100 quân địch, thu 14 pháo và 20 xe tăng, thiết giáp.
Nắm bắt thời cơ, các đội công tác phát động quần chúng từ Đức Lập đến Đắk Sắk, Đắk Song nổi dậy giành chính quyền, giải phóng huyện Đức Lập và các vùng xung quanh.
Tượng đài chiến thắng Đức Lập được xây dựng tại trung tâm huyện Đắk Mil để ghi nhớ chiến thắng lịch sử của quân đội ta
Phát biểu tại Hội thảo khoa học “Chiến thắng Đức Lập - Nửa thế kỷ nhìn lại”, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Đắk Nông Lưu Văn Trung cho rằng, chiến thắng Đức Lập đã khẳng định sự trưởng thành vượt bậc của lực lượng vũ trang (LLVT) chính quy và LLVT địa phương trong phối hợp tiến công quy mô lớn, tốc độ nhanh, đập tan cụm phòng ngự then chốt, vững chắc nhất trong hệ thống phòng thủ của địch tại Đức Lập.
Thiếu tướng, PGS,TS Hoàng Văn Phai, Phó Giám đốc Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng nhấn mạnh chiến thắng Đức Lập ý nghĩa chiến lược, giúp phá vỡ hệ thống phòng thủ của địch
Chiến thắng Đức Lập không chỉ tạo bàn đạp cho chiến dịch Tây Nguyên giành thắng lợi, mà còn có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã đánh giá chính xác tình hình, xác định Tây Nguyên là “yết hầu” của hệ thống phòng thủ của địch tại miền Nam, có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng.
“
Chiến thắng Đức Lập không chỉ tạo bàn đạp cho chiến dịch Tây Nguyên giành thắng lợi, mà còn có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975.
“Đây là một trận đánh có ý nghĩa chiến lược, giúp phá vỡ hệ thống phòng thủ của địch, làm rối loạn toàn bộ thế trận của chính quyền Sài Gòn, buộc địch phải co cụm, tạo điều kiện thuận lợi để quân ta tiếp tục tiến công giải phóng Buôn Ma Thuột và toàn bộ Tây Nguyên”, Thiếu tướng, PGS, TS Hoàng Văn Phai, Phó Giám đốc Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng nhận định.
Cựu chiến binh Nguyễn Văn Thí xúc động nhắc lại thời khắc lịch sử khi giải phóng Đức Lập
Chiến thắng Đức Lập đã tác động quan trọng về nhiều mặt, mở toang cánh cửa tiến vào Tây Nguyên. Sự thất thủ ở cứ điểm Đức Lập đã làm rung chuyển hệ thống phòng thủ của địch, tạo điều kiện thuận lợi cho quân ta tiếp tục tiến công Buôn Ma Thuột, Pleiku và Kon Tum, giải phóng hoàn toàn Tây Nguyên. Với diễn biến chớp nhoáng, thắng lợi nhanh chóng, chiến thắng này đã làm suy sụp tinh thần chiến đấu, khiến chính quyền Sài Gòn hoang mang, mất phương hướng, buộc rút chạy hỗn loạn khỏi Tây Nguyên và sụp đổ nhanh chóng.
Chiến thắng này còn cho thấy tinh thần chiến đấu quả cảm, mưu trí của bộ đội ta; sự phối hợp chặt chẽ giữa các binh chủng, lực lượng vũ trang và Nhân dân địa phương. Những yếu tố này đã tạo nên sức mạnh tổng hợp, giúp quân ta giành thắng lợi nhanh chóng, triệt để, phá tan tuyến phòng thủ kiên cố của địch tại Tây Nguyên.
Ông Nguyễn Văn Thí, người trực tiếp tham gia trận đánh Đức Lập cho hay: “Chiến tranh thiếu thốn đủ bề, cái chết và sự sống mong manh, nếu không có tinh thần bền gan vững chí, giữa bom rơi đạn nổ, chân dẫm mìn không nao núng tinh thần của bộ đội thì khó mà thành công”.
Đồi 722 - Đắk Sắk là một cao điểm chiến lược của ngụy quân trong chiến trường Đức Lập. 50 năm sau, Đồi 722 - Đắk Sắk trở thành Di tích lịch sử quốc gia
Trong cuộc kháng chiến này, Nhân dân các dân tộc quận lỵ Đức Lập sẵn sàng nhường cơm sẻ áo, nuôi quân, diệt thù. Không có Nhân dân chở che chắc chắn bộ đội không thể hoàn thành nhiệm vụ. Do đó, bài học quân và dân phát huy cao độ ý chí quyết chiến, quyết thắng, vượt qua mọi hi sinh, gian khổ giành thắng lợi nhanh chóng, trọn vẹn rất quan trọng.
Từng là vùng đất nhuốm đầy máu lửa nhưng sau 50 năm, vùng đất Đức Lập - nay là Đắk Mil - đã trở nên giàu có, sầm uất, dáng dấp của một đô thị hiện đại, văn minh
50 năm đã trôi qua, nhưng bài học kinh nghiệm từ chiến thắng Đức Lập vẫn còn vẹn nguyên giá trị để nghiên cứu, vận dụng cho sự nghiệp xây dựng lực lượng và thế trận chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân trong bảo vệ Tổ quốc hôm nay.