TỔNG THUẬT Toạ đàm: “Tăng trưởng xanh - Xu thế toàn cầu, sự lựa chọn tất yếu”

Chính sách - Ngày đăng : 09:00, 29/11/2024

Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức Tọa đàm "Tăng trưởng xanh - Xu thế toàn cầu, sự lựa chọn tất yếu" để phân tích làm rõ nhiều vấn đề liên quan đến tăng trưởng xanh.

TỔNG THUẬT Toạ đàm: “Tăng trưởng xanh - Xu thế toàn cầu, sự lựa chọn tất yếu”- Ảnh 1.
Các vị khách mời tham dự Tọa đàm "Tăng trưởng xanh - Xu thế toàn cầu, sự lựa chọn tất yếu" (từ phải sang): Ông Nguyễn Hùng Nam, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hưng Yên; ông Lê Việt Anh, Vụ trưởng Vụ Khoa học, Giáo dục, Tài nguyên và Môi trường, Bộ Kế hoạch và Đầu tư; ông Quách Quang Đông, Phó Vụ trưởng Vụ Tiết kiệm năng lượng và Phát triển bền vững, Bộ Công Thương; ông Binu Jacob, Tổng Giám đốc Công ty Nestlé Việt Nam - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Là xu thế toàn cầu và là sự lựa chọn tất yếu, khách quan, tăng trưởng xanh có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia.

Thời gian qua, tại nước ta, vấn đề về tăng trưởng xanh, phát triển xanh được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đặc biệt quan tâm thúc đẩy, các bộ ngành, địa phương hết sức nỗ lực và chủ động vào cuộc, triển khai, qua đó đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong thúc đẩy tăng trưởng và phát triển xanh, khẳng định mạnh mẽ cam kết của Việt Nam trong hướng tới hiện thực hóa mục tiêu Net Zero vào năm 2050.

Quá trình chuyển đổi xanh cũng đã mở ra rất nhiều triển vọng phát triển, hợp tác cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước tại Việt Nam cũng như các cơ hội vươn ra thế giới của các doanh nghiệp Việt Nam.

Vậy, bản chất, nội hàm của chuyển đổi xanh là gì; những triển vọng, cơ hội này được mở ra đối với các doanh ra sao; cơ chế, chính sách nào cần tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện, đổi mới để tiếp tục thúc đẩy chuyển đổi xanh; những mô hình hay, kinh nghiệm tốt của địa phương, tập đoàn trong triển khai chuyển đổi xanh; giải pháp nào để tiếp tục thúc đẩy chuyển đổi xanh và phát triển bền vững… Những vấn đề này sẽ được luận bàn, phân tích, làm rõ tại Tọa đàm"Tăng trưởng xanh - Xu thế toàn cầu, sự lựa chọn tất yếu"do Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức hôm nay với sự tham dự của các vị khách mời là lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp:

- Ông Nguyễn Hùng Nam, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hưng Yên

- Ông Lê Việt Anh, Vụ trưởng Vụ Khoa học, Giáo dục, Tài nguyên và Môi trường, Bộ Kế hoạch và Đầu tư

- Ông Quách Quang Đông, Phó Vụ trưởng Vụ Tiết kiệm năng lượng và Phát triển bền vững, Bộ Công Thương

- Ông Binu Jacob, Tổng Giám đốc Công ty Nestlé Việt Nam

Tất cảTổng thuật
13:03 ngày 28/11/2024

Việt Nam thể hiện quyết tâm mạnh mẽ thúc đẩy "xanh hóa" nền kinh tế; khẳng định cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Để đạt được các mục tiêu trên, đòi hỏi sự vào cuộc của các thành phần kinh tế trong đó có các DN. Tuy nhiên để cộng đồng DN chủ động tham gia, thúc đẩy quá trình này nhanh hơn, hiệu quả hơn thì điều kiện đầu tiên phải kể đến là "bệ đỡ" về cơ sở pháp lý, nhất là các chính sách khuyến khích, hỗ trợ từ Chính phủ, bộ, ngành.

Xin ông Lê Việt Anh cho biết các DN đầu tư xanhđã và đangđượchưởngcác chính sách ưu đãi của Chính phủ như thế nào vàcác DN phải làm gì, làm như thế nào đểtiếp thục đượcthụ hưởng các chính sách ưu đãirộng mởtrong phát triển xanh?

TỔNG THUẬT Toạ đàm: “Tăng trưởng xanh - Xu thế toàn cầu, sự lựa chọn tất yếu”- Ảnh 2.
Ông Lê Việt Anh, Vụ trưởng - Vụ trưởng Vụ Khoa học, Giáo dục, Tài nguyên và Môi trường, Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Ông Lê Việt Anh, Vụ trưởng - Vụ trưởng Vụ Khoa học, Giáo dục, Tài nguyên và Môi trường, Bộ Kế hoạch và Đầu tư:Như chúng ta đều biết, tăng trưởng xanh là một định hướng hết sức quan trọng cho tiến trình phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam trong những năm tiếp theo.

Theo đó Chính phủ đã ban hành Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh cho giai đoạn 2021-20230 và tầm nhìn đến năm 2025, đồng thời Chính phủ cũng ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030.

Các bộ, ngành, địa phương cũng đã ban hành hoặc lồng ghép các nhiệm vụ, giải pháp về tăng trưởng xanh trong kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của mình. Điều đó cho thấy Việt Nam xác định tăng trưởng xanh là một định hướng rất quan trọng cho kinh tế- xã hội trong giai đoạn tiếp theo. Tất cả các bên liên quan đều có trách nhiệm, nghĩa vụ tham gia vào tiến trình tăng trưởng xanh của nền kinh tế quốc gia.

Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh cũng đề ra hàng loạt nhiệm vụ, giải pháp cho các bên tham gia, với tinh thần không ai bị bỏ lại phía sau.

Đối với khối doanh nghiệp, kế hoạch hành động về tăng trưởng xanh cũng đã đề ra hàng loạt giải pháp, nhiệm vụ cụ thể cho các bộ, ngành cũng như các doanh nghiệp trong tiến trình tăng trưởng xanh. Cụ thể, đối với các biện pháp ưu đãi dành cho các doanh nghiệp tham gia vào tiến trình tăng trưởng xanh, chúng ta xác định được ngay loại ưu đãi doanh nghiệp.

Thứ nhất là ưu đãi tài chính, thứ hai là ưu đãi phi tài chính. Các ưu đãi về tài chính đã được thể hiện rất rõ trong Nghị định của Chính phủ, quy định của các bộ ngành liên quan đến thuế, liên quan đến tiếp cận tài chính, liên quan đến lãi suất và liên quan đến tất cả các nội dung có thể phát sinh chi phí cho doanh nghiệp.

Các cơ chế chính sách ưu đãi về tài chính đối với các doanh nghiệp rất rõ ràng, nằm trong các cơ chế, chính sách cụ thể mà các bộ, ngành đã ban hành.

Bên cạnh đó, Chính phủ cũng dành những chính sách phi tài chính cho doanh nghiệp. Theo đó các doanh nghiệp có cam kết về tiến trình tăng trưởng xanh sẽ được xem xét, phê duyệt để có quy trình thủ tục đầu tư kinh doanh thuận lợi nhất.

Đương nhiên khi doang nghiệp muốn hưởng các ưu đãi đối với tiến trình tăng trưởng xanh thì cũng phải đáp ứng các yêu cầu, điều kiện hay ngắn gọn là các tiêu chí, nguyên tắc để được hưởng ưu đãi như vậy. Doanh nghiệp phải đáp ứng được các chỉ tiêu, mục tiêu đề ra cho tiến trình tăng trưởng xanh. Những quy định này trong thời gian vừa qua các bộ, ngành cũng như Chính phủ đã nỗ lực hoàn thiện khuôn khổ chính sách dành cho doanh nghiệp.

Khuôn khổ chính sách dành cho tăng trưởng xanh ngày càng rõ ràng hơn, minh bạch và cụ thể hơn để doanh nghiệp hiểu và áp dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh của mình.

Tuy nhiên, chúng ta cũng phải thừa nhận rằng, trong thời gian qua, chính sách về tăng trưởng xanh cũng còn nhiều điểm cần tiếp tục hoàn thiện, dư địa dành cho nội dung hoàn thiện này còn rất lớn.

Theo kinh nghiệm quốc tế, việc đầu tiên cần triển khai thời gian tiếp theo là phải có hệ thống phân loại xanh quốc gia rất rõ ràng, cụ thể. Việc này Ban Chỉ đạo quốc gia về tăng trưởng xanh cũng đã giao nhiệm vụ cho Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan sẽ ban hành hệ thống xanh quốc gia.

Trên cơ sở đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ ban hành hệ thống ngành xanh quốc gia. Khi hệ thống này được ban hành, chúng ta sẽ xác định được rõ doanh nghiệp nào, dự án đầu tư nào được hưởng các ưu đãi về cơ chế, chính sách dành cho tăng trưởng xanh.

Sau khi hệ thống này được ban hành, chúng ta sẽ có hàng loạt cơ chế chính sách ưu đãi kèm theo rõ ràng dành cho doanh nghiệp. Tất nhiên tiến trình như vậy sẽ yêu cầu khối lượng thời gian không nhỏ. Do đó, Chính phủ cũng cho phép áp dụng cơ chế thí điểm liên quan đến tăng trưởng xanh và nội dung cụ thể này trong thời gian tới, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tiếp tục nghiên cứu để kiến nghị Thủ tướng cho phép áp dụng những cơ chế ưu đãi đặc thù dành cho các dự án đầu tư cũng như các doanh nghiệp liên quan đến tăng trưởng xanh.

Chúng ta có thể tiếp cận theo hướng lựa chọn những dự án đầu tư thí điểm có tiêu chí nguyên tắc đáp ứng tăng trưởng xanh, cũng như có thể xác định những doanh nghiệp đã áp dụng tiến trình tăng trưởng xanh như áp dụng công nghệ cao, bảo vệ môi trường, công nghệ hướng tới tương lai về bảo đảm mức khí thải đáp ứng yêu cầu. Những nội dung này đang trong quá trình nghiên cứu, tiếp tục hoàn thiện và bổ sung chính sách trong thời gian tiếp theo. Điều này đòi hỏi có sự phối hợp rất tích cực của các bên liên quan, trong đó có bản thân các doanh nghiệp.

Khi các doanh nghiệp tham gia quá trình hoàn thiện chính sách thì cơ chế chính sách ban hành sẽ bảo đảm toàn diện, tổng thể và đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp cũng như toàn bộ xã hội. Chúng ta cần phải xác định rằng tăng trưởng xanh là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị, trong đó có trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan hành chính nhà nước, các chủ thể liên quan và đặc biệt là trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, một vấn đề trong thời gian gần đây được đề cập rất rõ nét và được nhấn mạnh trong các diễn đàn khác nhau về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.

13:10 ngày 28/11/2024

Phát triển bền vững không chỉ là xu thế mà còn là một yêu cầu bắt buộc với các DN Việt Nam muốn vươn ra thị trường thế giới bởi hàng hóa xuất khẩu và các thị trường lớn, khó tính luôn đòi hỏi các chứng chỉ về môi trường, carbon… Do đó DN Việt Nam muốn vươn mình ra thế giới, khẳng định thương hiệu Việt cần phải nhận thức rõ tính tất yếu của quá trình phát triển xanh, bền vững. Nhận định của ông Quách Quang Đông về quan điểm trên như thế nào và xin ông chia sẻ rõ hơn về vai trò dẫn dắt của ngành Công Thương trong thực hiện mục tiêu phát triển xanh của nước ta thời gian qua?

TỔNG THUẬT Toạ đàm: “Tăng trưởng xanh - Xu thế toàn cầu, sự lựa chọn tất yếu”- Ảnh 3.
Ông Quách Quang Đông, Phó Vụ trưởng Vụ Tiết kiệm năng lượng và phát triển bền vững, Bộ Công Thương tại Tọa đàm - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Ông Quách Quang Đông, Phó Vụ trưởng Vụ Tiết kiệm năng lượng và phát triển bền vững, Bộ Công Thương:Tôi hoàn toàn đồng tình với nhận định và đánh giá về xu thế, bối cảnh chúng ta áp dụng các rào cản kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu về môi trường, về BĐKH cũng như phát triển bền vững. Hiện nay Việt Nam đã tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như Hiệp định Đối tác toàn diện tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam và Vương quốc Anh và Bắc Ireland… Những hiệp định thương mại tự do thế hệ mới này đều có cam kết về tỉ lệ xóa bỏ những thuế quan nhập khẩu đối với những nước tham gia Hiệp định có thể lên đến 100%. Điều này sẽ tạo ra thách thức đối với những nước phát triển trong việc bảo vệ nền sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh về giá thành sản xuất từ các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, vốn có lợi thế về giá nhân công thấp hơn, về chi phí năng lượng thấp hơn cũng như những tiêu chuẩn về môi trường.

Do đó, điều này cũng đặt ra những khó khăn, thách thức đối với các nước phát triển. Họ dựng lên và áp dụng thêm hàng rào kỹ thuật, trong đó có liên quan đến những yếu tố như chất lượng hàng hóa, xuất xứ nguồn gốc hay những tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường, từ đó hạn chế sản phẩm giá rẻ từ những nước đang phát triển. Với những mức thuế nhập khẩu tại các nước tham gia Hiệp định tự do thương mại thế hệ mới có thể về đến 0 phần trăm, đây sẽ là cơ hội rất lớn đối với các DN Việt Nam muốn vươn ra thế giới.

Tuy nhiên, song hành với quá trình này, các DN Việt Nam cũng phải quyết liệt đổi mới tư duy, dổi mới chiến lược để đáp ứng những yêu cầu về phát triển bền vững và tăng trưởng xanh. Nghĩa là phải lưu ý các yếu tố liên quan đến chất lượng hàng hóa và những tiêu chuẩn về môi trường và chúng ta phải tuân thủ luật chơi của các nước phát triển. Ở đây chúng ta phải tranh thủ những lợi thế quốc gia như chi phí nhân công vẫn đủ ở mức cạnh tranh được.

Để hỗ trợ các chương trình chuyển đổi của các DN theo hướng xanh và bền vững, Chính phủ, Bộ Công Thương đã xây dựng và triển khai nhiều chương trình hỗ trợ trực tiếp như chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, giai đoạn 2019-2030, Chương trình quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững, giai đoạn 2021-2030 cũng như Kế hoạch ứng phó với BĐKH và tăng trưởng xanh đến năm 2030 có tính đến năm 2050. Các chương trình này nhằm hỗ trợ các DN chuyển đổi theo hướng sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên, nguyên nhiên liệu, năng lượng cũng như tiến đến phát thải thấp trong quá trình sản xuất kinh doanh.

Qua đây, chúng tôi cũng muốn gửi thông điệp đến cộng đồng DN Việt Nam hãy nỗ lực, tích cực và kiên trì đổi mới, chuyển đổi theo hướng xanh, bền vững; xây dựng chiến lược phát triển dài hạn đồng thời tiếp tục đồng hành và hưởng ứng, hỗ trợ những chương trình của Chính phủ và Bộ Công Thương.

13:21 ngày 28/11/2024

Quá trình chuyển dịch từ nền kinh tế "nâu" sang "xanh" khó có thể đạt hiệu quả cao nếu thiếu sự đồng thuận, chủ động thực hiện của các địa phương.

Là một tỉnh có nhiều kết quả ấn tượng trong thu hút đầu tư,nhất là các dự án xanh, ôngNguyễn Hùng Namcó thể chia sẻ những chính sách mà tỉnh đã áp dụng trong thời gian qua để thu hút đầu tư trong và ngoài nướccũng như những bài học hay, kinh nghiệm quý được địa phương rút ra. Các nhiệm vụ trọng tâm tỉnh sẽ tập trung triển khai thực hiện cho thu hútcác dự án xanhthời gian tới là gì, thưa ông?

TỔNG THUẬT Toạ đàm: “Tăng trưởng xanh - Xu thế toàn cầu, sự lựa chọn tất yếu”- Ảnh 4.
Ông Nguyễn Hùng Nam, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hưng Yên - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Ông Nguyễn Hùng Nam, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hưng Yên:Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ban chỉ đạo Quốc gia về tăng trưởng xanh, Nghị quyết Đại hội 19 của Đảng bộ tỉnh, trong những năm qua, tỉnh Hưng Yên đã và đang tích cực chuyển dịch từ kinh tế nâu sang xanh với quyết tâm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững và bảo vệ môi trường, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên. Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng của tỉnh Hưng Yên luôn đạt top cao của cả nước. Năm 2024, GDP của tỉnh Hưng Yên ước tăng 8,17% và tính cả giai đoạn 2021-2025 ước tăng 9,69%. Năm 2024, thu ngân sách tỉnh Hưng Yên đạt 39.446 tỷ đồng đạt 120% kế hoạch. Năm 2023, chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Hưng Yên xếp thứ 12/63 tỉnh, thành phố; chỉ số xanh xếp thứ 4/63 tỉnh, thành phố. Năm 2024, thu hút đầu tư ước đạt 25.751 tỷ đồng và 801 triệu USD. Trong đó có 138 dự án đầu tư mớinâng tổng số dự ántrên địa bàn tỉnh lên 2.328 dự án.

Để thu hút đầu tư, đồng thời sự chuyển dịch kinh tế từ nâu sang xanh thì thời gian qua tỉnh đã áp dụng đồng bộ nhiều giải pháp, chính sách:

Một là đồng bộ về cơ sở hạ tầng để tạo sự hấp dẫn, thu hút đầu tư, Tỉnh đã tập trung thực hiện các quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt: 1- Tập trung triển khai các khu, cụm công nghiệp; 2- Phát triển hệ thống hạ tầng giao thông suốt. Trên địa bàn tỉnh đang tiến hành thực hiện các dự án của quốc gia như dự án vành đai 4, dự án vành đai 3,5; các tuyến đường kết nối giữa đường Cao tốc Hà Nội – Hải Phòng, Cao tốc Pháp Vân – Cầu Giẽ và các tuyến đường trong tỉnh. Chúng tôi đã đồng bộ phát triển hệ thống cấp nước, cấp điện và các hệ thống hạ tầng thông tin liên lạc để phục vụ sản xuất. Thời gian vừa qua, Chính phủ cũng đã khánh thành đường dây 500 kW mạch 3Quảng Trạch – Phố Nối. Các hệ thống điện trên địa bàn tỉnh Hưng Yên đảm bảo để phục vụ cho các nhà đầu tư phát triển công nghiệp; 4- Tỉnh luôn quan tâm đầu tư, hoàn thiện các hệ thống hạ tầng nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân, công trình thương mại dịch vụ văn hóa; cơ sở đào tạo nghề, y tế để phục vụ nhu cầu cơ bản, thiết thực cho người lao động. Chúng tôi cũng đã ban hành Đề án phát triển nhà ở xã hội dành cho công nhân và người lao động.

Thứ hai là giải quyết các thủ tục hành chính liên quan đến đầu tư kinh doanh và dịch vụ; hỗ trợ đầu tư: Chúng tôi luôn luôn quan tâm thực hiện các chương trình, kế hoạch để cải cách thủ tục hành chính và rút gọn, đơn giản hóa các thủ tục hành chính.

Thứ ba là nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư. Hưng Yên là 1 tỉnh có diện tích không lớn nên chúng tôi rất quan tâm đến lựa chọn các nhà đầu tư. Về xúc tiến đầu tư, hàng năm tỉnh tổ chức các đoàn xúc tiến đầu tư tại nước ngoài như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Châu Âu, Mỹ. Ngoài ra, chúng tôi cũng mời các hiệp hội đầu tư nước ngoài như của Hàn Quốc, Nhật Bản, Châu âu đến làm việc với Tỉnh và thường xuyên, định kỳ đối thoại với các doanh nghiệp trong nước như các doanh nghiệp nước ngoài đang đầu tư tại tỉnh để lắng nghe, chia sẻ và hoàn thiện các chính sách của mình.

Về chính sách ưu đãi đầu tư: Để thu hút các dự án trên địa bàn, tỉnh Hưng Yên đã thực hiện các chính sách đầu tư chủ yếu về tài chính, thuế và tín dụng, đất đai. Trong đó hỗ trợ: cho thuê đất và công tác giải phóng mặt bằng và hỗ trợ kinh phí đào nghề cho người lao động.

Về bảo vệ môi trường và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, tỉnh đã triển khai đồng bộ hàng loạt các đề án, chương trình, giải pháp toàn diện trong các lĩnh vực có tác động đến môi trường và tài nguyên thiên nhiên.

Về Thương mại, tỉnh đã ban hành Đề án nói không với rác thải nhựa và túi nilong tại các cửa hàng tiện lợi, siêu thị, chợ dân sinh.

Về lĩnh vực nông nghiệp, tỉnh chủ động hướng dẫn người dân đổi mới phương thức canh tác để hoàn thiện; giảm cường độ phác thải khí nhà kính. Đến nay, chúng tôi đã chứng nhận cho 305 mô hình trồng trọt và 113 mô hình chăn nuôi, 23.000 mô hình thủy sản đạt tiêu chuẩnVietGAP.

Về lĩnh vực giao thông vận tải, tỉnh khuyến khích các doanh nghiệp tham gia đầu tư vận hành các phương tiện giao thông công cộng.

Về lĩnh vực đô thị, tỉnh từng bước thúc đẩy đô thị hóa theo hướng thông minh, bền vững và có năng lực chống chịu với biến đổi khí hậu. Trong chương trình phát triển đô thị giai đoạn 2021 – 2025 của chúng tôi có đề xuất các dự án phục vụ phát triển đô thị tăng trưởng xanh và ứng phó với biến đổi khí hậu.

Về lĩnh vực bảo vệ môi trương và thích ứng với biến đổi khí hậu, Hưng Yên đã ban hành Chương trình bảo vệ môi trường thích ứng với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021 – 2025 và tỉnh đang triển khai đề án thu gom nước thải sinh hoạt trong khu dân cư và các đề án về thu gom xử lý các chất thải rắn. Trong thời gian tới, tỉnh tiếp tục, tích cực chỉ đạo chuyển dịch nền kinh tế nâu sang xanh với quyết tâm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững đồng thời bảo vệ môi trường và sử dụng hiệu quả tài nguyên môi trường, thiên nhiên theo đúng chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

13:30 ngày 28/11/2024

Là một Tập đoàn đã quốc gia đã có mặt tại gần 200 quốc gia trên thế giới với lịch sử hoạt động gần 160 năm, Tập đoàn Nestlé luôn coi trọng những nguyên tắc phát triển bền vững trong các hoạt động sản xuất - kinh doanh gắn liền với thực hiện trách nhiệm xã hội. Có mặt tại Việt Nam từ năm 1995, Nestlé Việt Nam luôn cam kết đầu tư lâu dài và vì sự phát triển bền vững của Việt Nam với tầm nhìn trở thành "Công ty toàn cầu gắn kết địa phương tiên phong trong phát triển bền vững".

Xin ông Binu Jacob chia sẻ một số sáng kiến phát triển bền vững, tăng trưởng xanh mà Nestlé đã và đang triển khai ở các nước nói chung và ở Việt Nam nói riêng?

TỔNG THUẬT Toạ đàm: “Tăng trưởng xanh - Xu thế toàn cầu, sự lựa chọn tất yếu”- Ảnh 5.
Ông Binu Jacob, Tổng Giám đốc Công ty Nestlé Việt Nam - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Ông Binu Jacob, Tổng Giám đốc Công ty Nestlé Việt Nam: Là Tập đoàn thực phẩm hàng đầu thế giới, Nestlé luôn quan tâm đến việc thực phẩm chúng tôi sản xuất ra mang tính bền vững, chính vì thế chúng tôi đặt vấn đề phát triển bền vững ở tầm quan trọng, ưu tiên cao.

Tại Việt Nam, tính đến nay, chúng tôi đã có 2 nhà máy ở Hưng Yên, 3 nhà máy tại Đồng Nai và 1 nhà máy tại Long An. Trong mọi hoạt động cũng như dự án, chúng tôi luôn tính đến tính bền vững trong toàn chuỗi giá trị.

Tôi xin chia sẻ về những hoạt động đầu tư cho phát triển bền vững của Nestlé ở Việt Nam.

Đầu tiên là bảo đảm nguồn nguyên liệu bền vững. Ngành hàng mà chúng tôi hoạt động mạnh nhất ở Việt Nam là cà phê. Chúng tôi luôn bảo đảm cà phê Nestlé thu mua từ người sản xuất ở Việt Nam đều là những loại cà phê có chất lượng cao, được sản xuất một cách bền vững.

Thông qua chương trình NESCAFÉ Plan, Nestlé đã hỗ trợ hơn 21.000 hộ nông dân trồng cà phê chuyển đổi sang canh tác theo phương pháp nông nghiệp tái sinh giúp giảm 20% lượng phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, tiết kiệm 40-60% lượng nước tưới.

Và Nestlé cũng tiết kiệm lượng nước sử dụng ở tất cả nhà máy của mình. Trong 3 năm vừa qua, Nestlé là một trong số ít những công ty ở Việt Nam nhận được chứng chỉ của tổ chức Water Stewardship cho những giải pháp tiết kiệm nước. Hiện nay chúng tôi thực hiện 100% trung hòa về nước, có nghĩa là hoàn trả và tái tạo 100% nước đã đưa vào sử dụng.

Ngoài ra, có một sáng kiến nữa để thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, đó là Nestlé cam kết phát triển bao bì bền vững. Hiện gần 95% bao bì của Nestlé tại Việt Nam đã được thiết kế để có thể tái chế. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn chưa hài lòng với kết quả đó, chúng tôi luôn muốn trở thành doanh nghiệp hàng đầu và mong muốn tìm kiếm được những cách thức để có thể tăng tỷ lệ tái chế.

Một sáng kiến nữa là Nestlé áp dụng các giải pháp năng lượng hiệu quả như năng lượng tái tạo, năng lượng sinh khối, các giải pháp thu hồi nhiệt và sử dụng năng lượng hiệu quả…

Chúng tôi cũng phối hợp chặt chẽ với các cơ quan trực thuộc Chính phủ cũng như UBND các địa phương để có thể đóng góp vào việc hiện thực hóa cam kết chung của Việt Nam về việc đạt Net Zero vào năm 2050.

Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng là Nestlé rất quan tâm tới việc khuyến khích lối sống lành mạnh.

Một vấn đề không chỉ ở Việt Nam mà ở trên toàn thế giới hiện nay là trẻ em ngày càng ít quan tâm tới các hoạt động thể chất, chúng bị hấp dẫn bởi điện thoại di động, các thiết bị cầm tay. Do vậy, thông qua hợp tác với các đối tác, trong đó có Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nestlé đã xây dựng và triển khai nhiều chương trình, hoạt động để khuyến khích trẻ em Việt Nam năng động hơn, tham gia hoạt động thể chất nhiều hơn. Mỗi năm, các hoạt động, phong trào của Nestlé Việt Nam đã thu hút hơn 500.000 trẻ em tham gia vào các hoạt động thể chất.

Chúng tôi cũng hỗ trợ rất nhiều việc nâng cao kiến thức, kỹ năng và sinh kế cho phụ nữ nông thôn. Chúng tôi đã hỗ trợ chương trình đào tạo cho 1,7 triệu phụ nữ nông thôn để giúp họ cải thiện kiến thức, kỹ năng làm việc.

13:36 ngày 28/11/2024

Để hướng đến mục tiêu phát triển bền vững và tăng trưởng xanh thì số lượng cácdoanh nghiệp, tập đoàn lớn đầu tưthực sựquan tâm về "chất"chưa nhiều. Vậy đâu là nguyên nhân và những khó khăn mà cácdoanh nghiệpđang gặp phải trong quá trình thúc đẩy đầu tư nhiều hơn nữa vào lĩnh vực này, thưa ôngLê Việt Anh?

TỔNG THUẬT Toạ đàm: “Tăng trưởng xanh - Xu thế toàn cầu, sự lựa chọn tất yếu”- Ảnh 6.
Ông Lê Việt Anh: Trong tiến trình tăng trưởng xanh, ngoài vai trò hỗ trợ của Nhà nước thông qua cơ chế chính sách thì tính chủ động nắm bắt và vươn lên của doanh nghiệp hết sức quan trọng - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Ông Lê Việt Anh:Đây là một câu hỏi hết sức thú vị và động chạm đến nhiều vấn đề quan trọng liên quan đến việc triển khai trên thực tế. Chúng ta phải xác định có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan liên quan đến tiến trình tăng trưởng bền vững và tăng trưởng xanh. Chúng ta có thể chỉ ra rằng doanh nghiệp còn gặp tương đối nhiều khó khăn trong việc xác định mình được hưởng cơ chế ưu đãi nào từ phía Chính phủ. Điều này tôi đã đề cập đến ở phần đầu của chương trình, đó là Chính phủ cần có hệ thống phân loại các hoạt động kinh tế, các doanh nghiệp, các dự án đầu tư được xác định là xanh. Trên cơ sở đó thiết kế các cơ chế, chính sách mang tính đồng lợi ích và hướng định để làm sao doanh nghiệp được hưởng lợi từ các chính sách như vậy sẽ có đóng góp tích cực cho kinh tế, xã hội. Chúng ta biết rằng trong môi trường kinh doanh có những lợi ích xung đột và Nhà nước phải làm sao thiết kế các cơ chế chính sách để các lợi ích này, xung đột này sẽ phục vụ cho mục đích cuối cùng là đảm bảo môi trường kinh doanh đáp ứng tăng trưởng bền vững và tăng trưởng xanh.

Chúng ta cần phải thừa nhận trong thời gian vừa qua, tiến trình phát triển bền vững và tăng trưởng xanh còn gặp rất nhiều rào cản và thách thức. Thách thức đó đến từ môi trường chung cũng như từ các doanh nghiệp. Nhận thức của doanh nghiệp liên quan đến tăng trưởng xanh cũng cần phải củng cố trong thời gian tới. Các doanh nghiệp cũng phải tìm hiểu kỹ càng hơn về các chính sách mà Nhà nước đang dành ưu đãi về phát triển và tăng trưởng xanh. Tất nhiên, nội dung này cũng liên quan đến trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc phổ biến, tuyên truyền cũng như hướng dẫn doanh nghiệp đáp ứng các tiêu chí, nguyên tắc sẽ được áp dụng, sẽ được ưu đãi về phát triển bền vững và tăng trưởng xanh. Quý vị có thể nghe các thảo luận, trao đổi liên quan đến nội dung 'rửa xanh'. Rất nhiều doanh nghiệp hiện nay thực hiệp quá trình chưa được chuẩn xác liên quan đến các chứng nhận, chứng chỉ về môi trường và về tăng trưởng xanh. Trong thời gian tới, các cơ quan quản lý nhà nước sẽ phải xác định hệ thống, cơ chế chính sách để có thưởng phạt phân minh, tức là ưu đãi cho những doanh nghiệp làm ăn đứng đắn và có chế tài áp dụng cho những doanh nghiệp làm ăn chưa đúng. Điều này đòi hỏi sự phối hợp của rất nhiều ngành và lĩnh vực để không bỏ sót những doanh nghiệp xứng đáng được hưởng ưu đãi cũng như không bỏ sót doanh nghiệp phải chịu chế tài khắt khe của hệ thống chính sách pháp luật của chúng ta cũng như công luận.

Một khó khăn nữa chúng ta cũng không thể bỏ qua liên quan đến tiến trình tăng trưởng bền vững và phát triển xanh là chuyển đổi xanh đòi hỏi chi phí đầu tư tương đối lớn, điều này đã được rất nhiều nghiên cứu khẳng định. Có nhiều doanh nghiệp còn ngần ngại đầu tư đổi mới dây chuyền công nghệ cũng như đầu tư đổi mới trong dài hạn, đảm bảo tiêu chuẩn về phát thải khí nhà kính hoặc các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường. Đây là một thực tế chúng ta cần phải thừa nhận. Nhà nước cần phải có cơ chế chính sách hết sức rõ ràng để hỗ trợ các doanh nghiệp này trong quá trình chuyển đổi. Tất nhiên, từ phía doanh nghiệp cũng phải xác định rõ về mặt dài hạn, chuyển đổi theo hướng xanh mang lợi lợi ích lâu dài cho doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần phải nhận thức rằng lợi nhuận trong ngắn hạn sẽ nhanh chóng bị ảnh hưởng bởi những cơ chế chính sách tiến bộ toàn thế giới hiện nay đang áp dụng.

Người dẫn chương trình đã đề cập đến tiêu chuẩn quốc tế liên quan đến bảo vệ môi trường và tăng trưởng xanh. Đây là cuộc chơi toàn cầu, chúng ta cần phải đáp ứng tiêu chí, tiêu chuẩn toàn cầu thì mới tồn tại được trong thế giới biến động liên tục ngày nay. Chúng tôi có thể lấy ví dụ như vừa qua Liên minh châu Âu đã ban hành cơ chế kiểm soát carbon xuyên biên giới (CBAM). Cơ chế này tưởng chừng chưa ảnh hưởng ngay đến các khối doanh nghiệp, nhưng trên thực tế, chỉ trong một vài năm tới, các doanh nghiệp không tìm hiểu rõ quy trình, quy chế, quy định này, đảm bảo hàng hóa, sản phẩm của mình đáp ứng tiêu chuẩn, điều kiện này thì lập tức sẽ chịu ảnh hưởng hết sức nặng nề.

Chúng tôi hoàn toàn hiểu rằng trong tiến trình tăng trưởng xanh, ngoài vai trò hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp của Nhà nước thông qua cơ chế chính sách thì tính chủ động nắm bắt và vươn lên của doanh nghiệp hết sức quan trọng. Đối với nội dung này, phía cơ quan nhà nước xác định rõ những nội dung sẽ tập trung hỗ trợ cho doanh nghiệp.

Thứ nhất, về cơ chế chính sách, Chính phủ và các cơ quan ban ngành phải nhanh chóng, kịp thời ban hành đầy đủ để hỗ trợ cho phát triển bền vững và tăng trưởng xanh.

Thứ hai, phải huy động đủ nguồn lực tài chính để các tiến trình phát triển bền vững và tăng trưởng xanh đủ nguồn lực để triển khai và hỗ trợ cho các doanh nghiệp.

Thứ ba là tăng cường nâng cao nhận thức cho cả khối doanh nghiệp và người dân, bởi hàng hóa sản xuất cuối cùng đến tay người tiêu dùng. Khi người tiêu dùng có xu hướng tiêu thụ sản phẩm xanh, thân thiện với môi trường thì sẽ tạo ra động lực rất mạnh để doanh nghiệp tiếp tục quá trình sản xuất kinh doanh của mình.

Chúng ta hiểu rằng sản phẩm xanh hiện nay cơ bản có giá thành cao hơn so với các sản phẩm thông thường. Khi chúng ta đã huy động và đảm bảo sự tham gia của người dân trong việc tiêu dùng các sản phẩm xanh thì tôi tin sẽ là động lực quan trọng hàng đầu để doanh nghiệp đổi mới công nghệ và tiếp tục triển khai tiến trình phát triển bền vững và tăng trưởng xanh.

13:43 ngày 28/11/2024

Dưới góc nhìn của ngành công thương, xin ông Quách Quang Đông chia sẻ thêm những khó khăn thách thức chính sách là gì, từcấp vĩ mô đến vi mô?

TỔNG THUẬT Toạ đàm: “Tăng trưởng xanh - Xu thế toàn cầu, sự lựa chọn tất yếu”- Ảnh 7.
Ông Quách Quang Đông: Để chuyển đổi theo hướng xanh, bền vững, vươn mình ra thế giới, các doanh nghiệp phải có tầm nhìn chiến lược, dài hạn, bảo đảm lợi ích lâu dài, bảo đảm tính cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu hoá và đáp ứng xu thế chung của toàn cầu - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Ông Quách Quang Đông:Vừa rồi, đại diện Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã đưa ra những nhận định, đánh giá, phân tích rất xác đáng liên quan đến nội dung này. Ở góc độ của ngành công thương, chúng tôi thấy có một số khó khăn, thách thức cơ bản như sau:

Thứ nhất là về cơ chế, chính sách, chúng ta cần có những nhận định, phân tích, đánh giá, đồng thời phải có sự ghi nhận, cổ vũ và hỗ trợ để tăng cường nhận thức và định hướng cho việc tiêu dùng và sản xuất bền vững, hướng tới hàng hoá, dịch vụ xanh, sạch. Cần tạo động lực cho doanh nghiệp đi đầu, tiên phong, giữ những vị trí đầu tàu, dẫn dắt, từ đó lan toả để thu hút các doanh nghiệp khác đi theo.

Để hỗ trợ doanh nghiệp, Chính phủ, các bộ, ngành cần bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách đáp ứng với bối cảnh, tình hình mới của thế giới, đồng thời bảo vệ những lợi ích chính đáng của doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp phát triển và hạn chế rủi ro. Tăng cường hơn nữa sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành cũng như giữa Trung ương và địa phương.

Thứ hai, hiện nay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, để phát triển theo hướng xanh, bền vững thì việc thay đổi, chuyển đổi cũng như nâng cao, cải thiện dây chuyền công nghệ sản xuất là rất cần thiết. Tuy nhiên, việc này cũng đòi hỏi chi phí đầu tư lớn, do đó để hỗ trợ các doanh nghiệp, Chính phủ cần phát huy, hỗ trợ để khai thác tối đa nguồn lực trong nước và quốc tế, trong đó có những nguồn tài chính mới như tài chính xanh hoặc thị trường carbon để thêm nguồn lực hỗ trợ cho doanh nghiệp phát triển.

Thứ ba là tầm nhìn và chiến lược của một bộ phận không nhỏ doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn còn hạn chế, vẫn mang tính thời vụ, ngắn hạn và trước mắt. Do đó để chuyển đổi theo hướng xanh, bền vững, vươn mình ra thế giới, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có tầm nhìn chiến lược, dài hạn, bảo đảm lợi ích lâu dài, bảo đảm tính cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu hoá và đáp ứng xu thế chung của toàn cầu. Nếu chúng ta không thực hiện điều này thì việc chuyển đổi sẽ trở thành xa vời.

13:46 ngày 28/11/2024

Xin cảm ơn ông Quách Quang Đông, còn từ góc độ địa phương, thưa ông Nguyễn Hùng Nam,Hưng Yênđã có sự đồng hành như thế nào đối với doanh nghiệp trong tháo gỡ khó khăn, thu hút đầu tư vào lĩnh vực xanh?Địaphương đã chuẩn bị và sẵn sàng như thế nào để đón những nhà đầu tư lớn cho tăng trưởng xanh và bền vững?

Ông Nguyễn Hùng Nam:Mục tiêu của tỉnh Hưng Yên là tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp chế biến, chế tạo, đẩy mạnh thu hút đầu tư các dự án công nghiệp hiện đại, hiệu quả cao, trong đó ưu tiên thu hút đầu tư FDI trong lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo. Chính vì vậy, thời gian vừa qua, Hưng Yên đã tập trung nhiều giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quy hoạch theo hướng đồng bộ, thống nhất, bảo đảm phát huy, sử dụng có hiệu quả các tiềm năng, lợi thế và nguồn lực.

Tỉnh sẽ xây dựng, bổ sung các cơ chế khuyến khích, hỗ trợ theo các tiêu chí cụ thể, phù hợp với quy định của Chính phủ về ưu đãi, hỗ trợ đầu tư cũng như phù hợp với điều kiện của tỉnh để thu hút các dự án lớn, dự án trọng điểm, dự án công nghệ cao, thu hút các nhà đầu tư chiến lược, các tập đoàn đa quốc gia đến đầu tư, đặt trụ sở và thành lập các trung tâm nghiên cứu phát triển, trung tâm đổi mới sáng tạo theo tinh thần Nghị quyết số 50 của Bộ Chính trị.

Cùng với đó, tỉnh sẽ thường xuyên tổ chức các hoạt động đối thoại, lắng nghe, đồng hành cùng doanh nghiệp, nhà đầu tư để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh trên địa bàn tỉnh.

Chúng tôi sẽ tiếp tục đơn giản hoá thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư, luôn xác định đây là khâu quan trọng nhằm thu hút đầu tư có hiệu quả. Bên cạnh đó, tỉnh cũng xác định công tác giải phóng mặt bằng là một trong những yếu tố góp phần mở cửa, kêu gọi dòng vốn đầu tư vào tỉnh.

Trong những năm qua, tỉnh Hưng Yên cũng chỉ đạo các địa phương trên địa bàn đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng các công trình trọng điểm, đặc biệt là các công trình hạ tầng của các khu, cụm công nghiệp. Phát triển mạnh, đồng bộ các dịch vụ hỗ trợ cho phát triển công nghiệp như là điện, nước, dịch vụ viễn thông, vận tải, nhà ở cho công nhân…

13:50 ngày 28/11/2024

Dưới góc nhìn của DN, ông có thể cho biết đâu là những khó khăn, thách thức khi các DN đầu tư vào lĩnh vực xanh và với kinh nghiệm của doanh nghiệp FDI đã có nhiều chương trình phát triển xanh, dự án xanh (chương trình canh tác cà phê bền vữngNESCAFÉ Plan,mô hình kinh tế tuần hoàn trong sản xuất, sáng kiến bao bì bền vững...) của Nestle trong thời gian qua?Xin ông chia sẻ cách tiếp cận,triển khaicủa Nestletại Việt Nam nói riêng và thế giới nói chungcũng như đâu là chìa khóa để vượt qua những thách thức, khó khăn đó?

TỔNG THUẬT Toạ đàm: “Tăng trưởng xanh - Xu thế toàn cầu, sự lựa chọn tất yếu”- Ảnh 8.
Ông Binu Jacob: Với sự hỗ trợ từ Chính phủ Việt Nam, chúng tôi tin tưởng sẽ hoàn toàn đạt mục tiêu Net Zero vào năm 2050 - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Ông Binu Jacob:Thật sự là đúng như vậy, chúng tôi cũng có những khó khăn và thách thức lớn ở Việt Nam trong quá trình thực hiện tiến trình phát triển xanh. Nhưng đó là khó khăn chung vì đi đâu trên thế giới cũng gặp khó khăn này. Khi chúng ta gặp khó khăn thì chúng ta sẽ có cơ hội. Khó khăn này cũng giống như những khó khăn các khách mời vừa chia sẻ. Đặc biệt nó là gánh nặng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ bởi họ không có chuyên môn và chuyên gia tham gia, hoặc không có tính đổi mới cao. Khó khăn thách thức của Nestlé là cam kết phải đạt mục tiêu Net Zero vào năm 2050. Vì vậy, chúng ta phải có lộ trình để hướng tới mục tiêu này. Tôi tin tưởng tất cả các công ty có thể học hỏi cùng phát triển, kể cả chưa đạt được đến mức độ hoàn thiện.

Vấn đề quan trọng là chúng ta phải có một đối tác đa phương. Không có công ty nào có thể giải quyết các vấn đề đơn phương được. Ví dụ, trong chương trình NESCAFÉ, chúng tôi phối với với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các đối tác khác ở khu vực Tây Nguyên; trong chương trình liên quan đến trẻ em, chúng tôi làm việc với Bộ Giáo dục và Đào tạo; trong chương trình làm việc với phụ nữ, chúng tôi phối hợp với Hội Liên hiệp Phụ nữ… Chúng tôi cũng phối hợp với các công ty để tạo thành 1 hiệp hội công ty đóng gói và thu thập nguyên vật liệu từ thị trường, xong tái chế…

Điều tôi muốn chia sẻ nữa là chúng ta phải tập trung vào vấn đề đổi mới.

Đồng thời, chúng ta cần xem xét tài năng của thế hệ trẻ. Trong 30 năm qua, khi chúng tôi làm việc ở Việt Nam, chúng tôi cũng đã tuyển chọn và thu thập thế hệ trẻ, những người có tài năng thế hệ Z. Thế hệ Z này tập trung nhiều về tính bền vững. Họ tin vào nền kinh tế xanh và họ cũng có kinh nghiệm, tri thức. Họ có suy nghĩ khác nhau và đưa ra các giải pháp. Tôi nghĩ điều này hết sức quan trọng. Hằng năm, chúng tôi tập huấn hơn 120.000 người trẻ.

Điều quan trọng nữa là chúng ta phải có đối thoại về chính sách. Chúng tôi rất cảm ơn Chính phủ Việt Nam đã cởi mở, có đối thoại với các ngành công nghiệp. Điều đó cho phép chúng tôi có ý kiến đóng góp vào chính sách. Chính phủ đã lắng nghe ý kiến từ các doanh nghiệp chia sẻ về những khó khăn của họ. Chúng tôi nhấn mạnh là chúng tôi có đối tác là Chính phủ Việt Nam.

Chúng ta cũng cần giáo dục, thay đổi nhận thức của người tiêu dùng. Ví dụ việc đóng gói nước, chúng tôi đa phần đưa vào sử dụng từ các nguyên liệu tái chế. Nhưng người tiêu dùng đa phần nghĩ nguyên liệu vứt đi chỉ được chúng tôi rửa và sử dụng lại. Nhưng không phải vậy. Để sử dụng nguyên liệu tái chế, chúng tôi phải đầu tư nhiều hơn. Do vậy, chúng ta cần giáo dục và đào tạo, chia sẻ, cũng như nâng cao nhận thức của người tiêu dùng để họ hiểu và hỗ trợ chúng ta. Vì chúng tôi đi theo lộ trình này mà không được người tiêu dùng ủng hộ thì rất khó thực hiện mặc dù chi phí tái chế rất cao. Nhiều lĩnh vực chúng tôi đã thực hiện và cũng đã gặp khó khăn, thách thức. Với sự hỗ trợ từ Chính phủ Việt Nam, chúng tôi tin tưởng sẽ hoàn toàn đạt mục tiêu Net Zero vào năm 2050.

13:55 ngày 28/11/2024

Tăng trưởng xanh là một yêu cầu bắt buộc với các DN muốn phát triển bền vững. Chúng ta đã bàn sâu về những khó khăn, thách thức, vậy thì giải pháp đặt ra là gì? Trước tiên, xin được nghe ý kiến ông Quách Quang Đông!

TỔNG THUẬT Toạ đàm: “Tăng trưởng xanh - Xu thế toàn cầu, sự lựa chọn tất yếu”- Ảnh 9.
Các vị khách mời trao đổi tại Tọa đàm - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Ông Quách Quang Đông:Trong phần trả lời trước, đại diện của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công Thương cũng đã đánh giá và phân tích những yếu tố liên quan đến vĩ mô và vi mô trong hướng tới phát triển xanh và bền vững. Ở đây tôi chỉ muốn đánh giá, nhấn mạnh đến xu thế tất yếu cũng như đòi hỏi tất yếu của việc phát triển xanh và bền vững để đáp ứng bối cảnh toàn cầu hiện nay, cũng như việc ứng phó biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường. Tính tất yếu của xu hướng này được thể hiện trong mọi khía cạnh từ kinh tế, xã hội, môi trường, về yêu cầu của cách mạng 4.0 cũng như bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam muốn vươn mình ra thế giới thì phải nhận thức một cách sâu sắc và bảo đảm chiều hướng này để làm sao đưa doanh nghiệp phát triển một cách dài hạn và có chiến lược. Điều này chúng ta yêu cầu các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, quá trình cung ứng dịch vụ phải tính đến các yếu tố về giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường, đến giảm phát thải, đến các yếu tố về phát huy nguồn lực, đổi mới công nghệ, sáng tạo và không ngừng nâng cao sức cạnh tranh cũng như khả năng hạn chế rủi ro và chống chịu, nhận thức thấu đáo và áp dụng kinh tế tuần hoàn trong quá trình sản xuất, kinh doanh, cung ứng dịch vụ và tăng cường hội nhập và trách nhiệm đối với toàn cầu.

Thưa ông Nguyễn Hùng Nam, từ phía địa phương, theo ông giải pháp chúng ta cần triển khai trước mắt và lâu dài là gì để có thể thúc đẩy tăng trưởng xanh, phát triển bền vững?

Ông Nguyễn Hùng Nam:Trong xu thế cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, việc xây dựng các khu công nghiệp xanh giúp cải thiện môi trường cũng như phát triển cộng đồng bền vững. Hiện nay ở Việt Nam đã hình thành các khu công nghiệp xanh ở một số địa phương. Tuy nhiên, để phát triển các khu công nghiệp xanh, chúng tôi nhận thấy cần có các giải pháp trước hết là huy động các nguồn lực để xây dựng hiệu quả các khu công nghiệp xanh, nhất là nguồn lực về tài chính.

Thứ hai là hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp trong khu công nghiệp về các nguồn vốn vay ưu đãi để đổi mới công nghệ và nâng cao năng lực sản xuất, sử dụng tối đa các nguồn lực và giảm thiểu đến mức thấp nhất những ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường. Và Nhà nước tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong các khu, cụm công nghiệp được tiếp cận các phương thức sản xuất mới, tiên tiến, cải tiến công nghệ để sản xuất sạch hơn.

Thứ ba là tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn để nâng cao trình độ, năng lực cho cán bộ, công chức, hỗ trợ về kỹ năng, kỹ thuật trong giám sát và đánh giá các tác động của công nghiệp tới môi trường, từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp để nâng cao hoạt động của các khu công nghiệp, đặc biệt là tuân thủ các tiêu chí của khu công nghiệp xanh; xây dựng pháp luật về bảo vệ môi trường một cách đầy đủ, toàn diện, đồng bộ, thống nhất, bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả, đồng thời nâng cao năng lực thực thi kiểm tra, giám sát về việc tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường.

Cuối cùng, Nhà nước có chính sách đầu tư thích đáng cho việc xây dựng, triển khai các dự án, chương trình ưu tiên; nghiên cứu, triển khai nâng cao năng lực quản lý môi trường, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển sản phẩm dịch vụ môi trường cho ngành công nghiệp môi trường.

Ông Binu Jacob:Tôi rất vui khi nghe ý kiến đại diện lãnh đạo các cơ quan của Chính phủ là chúng ta đều nhận thức được rằng cần phải làm nhiều hơn nữa, nỗ lực hơn nữa. Chúng ta đều nói rất nhiều về tăng trường xanh, về phát triển bền vững, và chúng ta đều nhận thấy rằng cần phải làm nhiều điều hơn nữa, phải đẩy mạnh hơn nữa.

Điều đầu tiên chúng ta cần làm là phải cải thiện khung khổ pháp lý để thúc đẩy hơn nữa tăng trưởng xanh, tăng trưởng bền vững như chúng ta đã nói.

Thứ hai, tôi nghĩ Chính phủ Việt Nam đã làm rất tốt, nhưng vẫn còn dư địa lớn phải làm, đó là phát triển nguồn nhân lực để có thể triển khai việc phát triển bền vững, phát triển xanh.

Cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng là chúng ta cần xây dựng những sáng kiến, mô hình ở địa phương. Bởi vì, những mô hình tăng trưởng bền vững, mô hình tăng trưởng xanh chúng ta thường thấy trên thế giới cũng phải điều chỉnh cho phù hợp với từng địa phương, chứ không phải bê nguyên mẫu để áp dụng. Đấy là 3 nội dung tôi nghĩ chúng ta cần triển khai.

Thưa ông Lê Việt Anh, sau khi lắng nghe ý kiến của những vị khách mời, theo ông, Chính phủ cũng như các cơ quan chức năng, bộ ngành cần phải quan tâm vào những nội dung gì để có thể thu hút nhiều hơn nữa doanh nghiệp trong và ngoài nước mạnh dạn đầu tư vào các dự án xanh?

Ông Lê Việt Anh:Với tư cách là đại diện cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo quốc gia về tăng trưởng xanh, tôi hết sức vui mừng khi nhận được sự chia sẻ mang tính đồng hướng của các vị khách mời tham gia tọa đàm hôm nay từ Bộ Công Thương, đại diện UBND tỉnh Hưng Yên cũng như đại diện Nestlé. Tôi nhận thấy chúng ta cùng hướng đến một mục tiêu chung và chúng ta đều đồng thuận về những giải pháp, nhiệm vụ mà chúng ta phải triển khai trong thời gian tới. Rõ ràng về phía Chính phủ và tổng thể của cả nền kinh tế, chúng cần có những giải pháp rất cụ thể, rõ ràng để tạo được môi trường thuận lợi nhất cho doanh nghiệp cũng như người dân thực thi các hành vi về tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Tôi hoàn toàn đồng thuận với Nestlé chỉ ra 3 nội dung quan trọng cho tiến trình phát triển bền vững và tăng trưởng xanh.

Tôi nhấn mạnh nội dung thứ nhất trong giai đoạn tiếp theo đó là xây dựng khung khổ pháp lý dành cho phát triển bền vững và tăng trưởng xanh. Tôi cũng xin nhấn mạnh lại ý nghĩa hết sức quan trọng của hệ thống phân loại xanh quốc gia. Đối với nội dung này, Chính phủ đã có chỉ đạo hết sức quyết liệt và rõ ràng, và trong thời gian tới các cơ quan, bộ ngành có liên quan cùng phải phối hợp lắng nghe doanh nghiệp, để đưa ra được một hệ thống phân loại xanh đạt chuẩn mực Việt Nam và phù hợp với thông lệ quốc tế. Chúng ta biết rằng đây là cuộc chơi không phải chỉ có chúng ta tham gia mà là cuộc chơi toàn cầu. Chúng ta phải đáp ứng các yêu cầu của toàn cầu, cũng như đáp ứng các nhu cầu của bối cảnh trong nước.

Chúng tôi cũng mong muốn rằng trong thời gian tới, Bộ Kế hoạch và Đầu tư với tư cách là cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo quốc gia về tăng trưởng xanh sẽ nhận được ý kiến tham gia đầy đủ của các bộ ngành, địa phương cũng như khối doanh nghiệp, để ban hành được một hệ thống phân loại xanh và hệ thống ngành kinh tế xanh chuẩn mực nhất, phù hợp nhất với tiến trình của quốc gia cũng như cam kết toàn cầu. Chúng tôi xin cam kết rằng hệ thống này sẽ tạo ra được cơ chế, chính sách phù hợp và rõ ràng nhất đối với các doanh nghiệp, để doanh nghiệp biết mình cần phải đáp ứng điều kiện gì và sẽ được những ưu đãi, khuyến khích gì trong cơ chế chính sách quốc gia. Hệ thống phân loại xanh này cũng sẽ đảm bảo được tính tiến bộ và có thể linh hoạt thay đổi hoặc bổ sung. Chúng ta biết rằng công nghệ thay đổi nên không thể có một hệ thống phân loại xanh cứng ở thời điểm đó; chúng ta phải có một hệ thống tương đối mở, đảm bảo các công nghệ mới, các loại hình kinh doanh mới sẽ tiếp tục được bổ sung, cập nhật vào hệ thống này và sẽ được hưởng các ưu đãi, chính sách của Chính phủ. Điều này có nghĩa là những người tiên phong trong tiến trình tăng trưởng xanh và phát triển bền vững sẽ là những người được hưởng ưu đãi chuẩn xác nhất từ phía Chính phủ.

14:02 ngày 28/11/2024

Đúng như sự phân tích, đánh giá của các vị khách mời tham dự Tọa đàm, tăng trưởng xanh ngày nay đã trở xu thế toàn cầu và là sự lựa chọn tất yếu của các quốc gia nói chung và các doanh nghiệp nói riêng trên hành trình phát triển bền vững.

Qua tọa đàm, chúng tôi xin được trân trọng cảm ơn ý kiến của các vị khách mời đã có những phân tích, làm rõ về bản chất, nội hàm của tăng trưởng xanh cũng như những cơ hội, thách thức đặt ra trong thực hiện tăng trưởng xanh và các triển vọng hợp tác của doanh nghiệp trong lĩnh vực tăng trưởng xanh.

Đặc biệt, những bài học hay, kinh nghiệm quý cũng như các khuyến nghị, đề xuất của các vị khách mời có ý nghĩa hết sức thiết thực để các cơ quan chức năng bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách cho tăng trưởng và phát triển xanh, từ đó tạo điều kiện và mở ra những cơ hội và triển vọng hợp tác nhiều hơn đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực xanh, góp phần tích cực thực hiện cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trước cộng đồng quốc tế trong hiện thực hóa mục tiêu Net Zero vào năm 2050.