Mẹo vặt

Đáp án đề thi vào lớp 10 môn Ngữ Văn tỉnh Hà Giang 2024

Hùng Cường05/06/2024 15:22

Đáp án đề thi vào lớp 10 môn Ngữ Văn tỉnh Hà Giang 2024, giúp các em học sinh tham khảo, dễ dàng so sánh với kết quả bài thi vào lớp 10 của mình thuận tiện hơn.

Đáp án đề thi vào lớp 10 môn Ngữ Văn tỉnh Hà Giang 2024

Kỳ thi tuyển sinh lớp 10 THPT năm học 2024 - 2025 trên địa bàn tỉnh Hà Giang được tổ chức trong ngày 05/6/2024. Bài thi vào lớp 10 môn Văn Hà Giang theo hình thức tự luận, với thời gian làm bài 120 phút, tổ chức thi sáng ngày 5/6. Bên cạnh đó, có thể tham khảo thêm đề thi môn Toán. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Download.vn:

Đề thi tuyển sinh lớp 10 môn Văn Hà Giang 2024

Đáp án đề thi vào lớp 10 môn Ngữ Văn tỉnh Hà Giang 2024

I. ĐỌC HIỂU

Câu 1.

- Tác phẩm: Chiếc lược ngà.

- Tác giả: Nguyễn Quang Sáng.

Câu 2.

Lời dẫn trực tiếp: Yêu nhớ tặng Thu con của ba.

Câu 3.

Khi nhớ con anh lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt.

Câu 4.

Tình cảm của anh Sáu dành cho con trong đoạn trích: yêu thương, nhớ nhung và cũng vô cùng mong ngóng được về gặp con để tặng con cây lược.

Câu 5.

HS viết thành đoạn văn, sau đây là một vài gợi ý: Hành động thể hiện tình yêu thương cha mẹ:

- Yêu quý, kính trọng cha mẹ.

- Giúp đỡ cha mẹ những việc trong khả năng của mình.

- Chăm sóc cha mẹ khi cha mẹ đau ốm.

- Học tập tốt, tu dưỡng đạo đức để cha mẹ vui lòng.

II. LÀM VĂN

Gợi ý

I. Mở bài: giới thiệu về tác giả Chính Hữu, bài thơ Đồng chí.

II. Thân bài: phân tích chi tiết tác phẩm và nêu cảm nhận về bài thơ

1. Cơ sở hình thành tình đồng chí của người lính

a. Tình đồng chí của người lính bắt nguồn từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân

- Ngay từ những câu thơ mở đầu, tác giả đã lí giải cơ sở hình thành tình đồng chí thắm thiết, sâu nặng của anh và tôi – của những người lính cách mạng:

“Quê hương tôi nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.”

+ Thành ngữ “nước mặn đồng chua”, hình ảnh “đất cày lên sỏi đá”

+ Giọng điệu thủ thỉ, tâm tình như lời kể chuyện

=> Các anh ra đi từ những miền quê nghèo đói, lam lũ - miền biển nước mặn, trung du đồi núi, và gặp gỡ nhau ở tình yêu Tổ quốc lớn lao. Các anh là những người nông dân mặc áo lính – đó là sự đồng cảm về giai cấp.

- Cũng như giọng thơ, ngôn ngữ thơ ở đây là ngôn ngữ của đời sống dân dã, mộc mạc:

“Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”.

=> Đến từ mọi miền đất nước, vốn là những người xa lạ, các anh đã cùng tập hợp trong một đội ngũ và trở nên thân quen.

b. Cùng chung mục đích, lí tưởng chiến đấu:

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”

- Điệp từ, hình ảnh sóng đôi mang ý nghĩa tượng trưng => Tình đồng chí, đồng đội được hình thành trên cơ sở cùng chung nhiệm vụ và lí tưởng cao đẹp. Theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu, các anh đã cùng tập hợp dưới quân kì, cùng kề vai sát cánh trong đội ngũ chiến đấu để thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng của thời đại.

c. Cùng chia sẻ mọi gian lao, thiếu thốn

- Mối tính tri kỉ của những người bạn chí cốt được biểu hiện bằng một hìn ảnh cụ thể, giản dị, gợi cảm:“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”.

=> Chính trong những ngày gian khó, các anh đã trở thành tri kỉ của nhau,để cùng chung nhau cái giá lạnh mùa đông, chia nhau cái khó khăn trong một cuộc sống đầy gian nan.

- Dòng thơ thứ bảy trong bài thơ “Đồng chí” là một điểm sáng tạo, một nét độc đáo qua ngòi bút của Chính Hữu:

+ Dòng thơ được tách riêng độc lập, là một câu đặc biệt gồm từ hai âm tiết đi cùng dấu chấm than, ngân vang như tiếng gọi tha thiết, tạo một nút nhấn, lắng lại.

+ Hai tiếng “Đồng chí” thật giản dị, đẹp đẽ, là điểm hội tụ, là nơi kết tinh bao tình cảm đẹp: tình giai cấp, tình bạn,tình người trong chiến tranh.

=> Dòng thơ thứ bảy có ý nghĩa như một bản lề gắn kết đoạn đầu và đoạn thứ hai của bài thơ, là điểm nhấn, là mạch cảm xúc chung cho toàn bài. Có thể nói, hai tiếng “Đồng chí” vang lên thật giản dị và mang ý nghĩa vô cùng thiêng liêng trong thơ ca kháng chiến.

2. Biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí

a. Tình đồng chí của người lính Cách mạng được biểu hiện qua sự thấu hiểu những tâm tư, nỗi lòng của nhau:

- Các anh là những người lính gác tình riêng, ra đi vì nghĩa lớn, để lại sau lưng mảnh trời quê hương với bao băn khoăn, trăn trở.

- Hai chữ “mặc kệ” => Thái độ dứt khoát của người ra đi khi lí tưởng đã rõ ràng, mục đích đã chọn lựa:“Anh trai làng quyết đi giết giặc lập công”.

- Hình ảnh “gian nhà không” vừa gợi cái nghèo, cái xơ xác của những miền quê lam lũ, vừa gợi sự trống trải trong lòng người ở lại.

- “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” là cách nói tế nhị, giàu sức gợi. Quê hương nhớ người đi lính hay chính những người ra đi luôn nhớ về quê hương. Thủ pháp nhân hóa và hai hình ảnh hoán dụ đã biểu đạt sâu sắc tâm trạng, nỗi niềm của những người lính nơi chiến tuyến. Nhớ về quê hương cũng chính là cách tự vượt lên mình, vượt lên tình riêng vì sự nghiệp chung của đất nước.

b. Là đồng chí của nhau, họ cùng chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời quân ngũ

“Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày”.

=> Những chi tiết tả thực, hình ảnh sóng đôi đã góp phần tái hiện chân thực những khó khăn, gian khổ của cuộc đời người lính trong buổi đầu kháng chiến. Các anh đã cùng nhau gánh vác, cùng nhau chịu đựng…Chính tình đồng đội đã giúp họ lên cái “buốt giá” của mùa đông chiến đầu để rồi tỏa sáng nụ cười và càng thương nhau hơn.

- Hình ảnh “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” có sức gợi nhiều hơn tả với nhịp thơ chảy dài. Đây là cách thể hiện tình cảm rất lính. “Tay nắm lấy bàn tay” để truyền cho nhau hơi ấm của tình đồng đội, truyền cho nhau sức mạnh của tình đồng chí. Cái nắm tay ấy còn là lời hứa hẹn lập công.

III. Kết bài: khẳng định giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật qua đó nếu cảm nhận của em về tác phẩm.

Bài làm tham khảo

Mở bài

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta đã chứng kiến bao kì tích của những người nông dân. Họ đã làm nên lịch sử từ đôi bàn tay cày cuốc, đôi bàn chân lấm lem bùn lầy. Họ là những chàng “Thạch Sanh của thế kỉ XX”. Đã có biết bao tiếng hát, lời thơ ca ngợi những anh hùng “chân đất” ấy. Là một chiến sĩ, đồng thời cũng là một nghệ sĩ, với bài thơ Đồng chí, Chính Hữu đã góp một bản hùng ca hoà vào bản đàn chung về những người lính anh dũng của một thời kháng chiến gian khổ mà hào hùng.

Thân bài

Năm hai mươi tuổi, Chính Hữu viết về người lính trong “Ngày về” nhưng ở bài thơ này hình ảnh người chiến sĩ hiện lên với nhiều nét ước lệ, với những thanh gươm, áo bào, đôi giày vạn dặm, khác xa lắm người lính trong cuộc chiến thực tại:

“Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm

Bụi trường chinh phui bạc áo hào hoa”

(Chính Hữu – Ngày về)

Ba năm sau (1948), khi tham gia vào hàng ngũ cách mạng, được trực tiếp trải nghiệm đời lính, được chứng kiến những mất mát, hi sinh, những khó khăn gian khổ, được sống trong tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn, Chính Hữu đã có cái nhìn, cách cảm nhận khác về người lính. Điều đó được thể hiện rõ trong bài thơ Đổng chí. Ngay từ khi mới ra đời, Đồng chí đã được đón nhận nồng nhiệt. Có thể coi đó là một trong những áng thơ đẹp nhất về người lính, vẻ đẹp của bài thơ chính là vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội được hiện lên qua những “chi tiết và hình ảnh tự nhiên, bình dị mà cô đọng, giàu sức biểu cảm” (SGK Ngữ văn 9, tập 1).

Mở đầu bài thơ là sự khái quát về cảnh ngộ của những người lính:

“Quê hương anh nước mặn, đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.”

Ngôn ngữ thơ giản dị như lời ăn tiếng nói thường ngày của người dân quê. Ta bắt gặp ở đây những thành ngữ quen thuộc “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”, thể hiện rõ nhất nguồn gốc xuất thân của những người lính. Họ đến từ mọi miển Tổ quốc, từ những vùng đồng bằng châu thổ quanh năm ngập lụt đến vùng đồi núi trung du khô cằn. Những con người xa lạ, cách nhau cả một phương trời nhưng giống nhau ở cái nghèo, sự lam lũ khó nhọc của người dân quê Việt Nam. Chính sự đồng cảnh ấy đã khiến họ xích lại gần nhau, để từ những “người xa lạ”, họ tập hợp lại trong hàng ngũ cách mạng và trở thành quen biết, thân thiết với nhau:

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu,

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.”

Những hình ảnh thơ rất thực nhưng cũng đầy sức gợi. Điệp từ “bên” cùng cấu trúc song hành có tác dụng khẳng định sự gắn bó khăng khít giữa những người lính. Họ cùng chung nhiệm vụ chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc “súng bên súng” (cùng chung lí tưởng, suy nghĩ – “đầu sát bên đầu”). “Cái hay của nhà thơ là đã biết đem cái ấm áp của “đêm rét chung chăn” vào bài thơ, sưởi nóng mối tình đồng chí lên thành mức độ tri kỉ”. Những người lính đến với nhau nhẹ nhàng bình dị, vừa có cái chung của lí tưởng lớn, vừa có cái riêng của một đôi bạn ỷ hợp tâm đầu. Và cứ giản dị như thế, những con người cùng chung gian khó ấy trở thành đồng chí của nhau: Đồng chí!

Hai tiếng “đồng chí” vang lên, như một tiếng gọi thiết tha. Nhịp thơ đang dàn trải, như những lời thủ thỉ, tâm tình, đến đây chợt lắng lại, ngắt ra thành một câu thơ riêng, chỉ với hai từ và dấu chấm than, tựa như một nốt nhấn ngân vang. Nó vừa là một định nghĩa giản dị về tình đồng chí, vừa có ý nghĩa bản lề đóng lại những dòng cảm xúc bên trên và mở ra những nguồn mạch biểu hiện mới của tình đồng đội. Chính Hữu đã từng có những định nghĩa giản dị như vậy về tình đồng đội thiêng liêng:

“56 ngày đêm bom gầm, pháo giội

Ta mới hiểu thế nào là đồng đội Đồng đội ta

Là hớp nước uống chung

Nắm cơm sẻ nửa

Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa

Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết.”

(Chính Hữu – Giá từng thước đất)

Đồng chí là thế. Là sự gắn bó tha thiết tự trong tim, là sự sẻ chia những tâm tư, những gian khó cuộc đời, là sự thấu hiểu những tình cảm, nghĩ suy:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.”

Đối với những người nông dân, thiết thân nhất là ruộng vườn cả đời cày sâu cuốc bẫm, là ngôi nhà nhỏ có gia đình thân yêu. Vậy nhưng họ vẫn quyết tâm gạt bỏ lại sau lung, lên đường theo tiếng gọi của quê hương, đất nước. Từ “mặc kệ” mộc mạc như cách nói quen thuộc của người dân quê vang lên, ẩn chứa cả ý chí kiên định. Đó không phải là thái độ buông xuôi, vô trách nhiệm mà là biểu hiện của lòng quyết tâm sắt đá. Họ vẫn gắn bó lắm, vẫn yêu nhớ lắm cái mảnh đất quê hương nghèo khó, nên mới có thể cảm nhận được nỗi lòng của người thân nơi hậu phương:

“Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”

Đã bao lần ta bắt gặp hình ảnh cây đa, bến nước, sân đình trong ca dao xưa, nhưng vẫn thật mới mẻ trong thơ Chính Hữu. Biện pháp nghệ thuật hoán dụ “giếng nước”, “gốc đa” gợi ta nhớ tới nơi hò hẹn của những người dân quê, nhắc đến những kỉ niệm một thời gắn bó trên mảnh đất quê hương. Chúng cũng biết “nhớ” khi cách xa những người con thân yêu của làng quê. Nghệ thuật nhân hoá được sử dụng thật đắc địa. Bao tình cảm nặng sâu như đều dồn tụ trong tiếng ”nhớ“ giản dị ấy. Câu thơ gợi ta nhớ đến những tiếng thơ của Hồng Nguyên:

“Ít nhiều người vợ trẻ

Mòn chân bên cối gao canh khuya.”

(Hồng Nguyên – Nhớ)

Giữa người đi xa và người ở lại luôn có một sợi dây vô hình gắn kết. Những người lính cùng nhau san sẻ mọi buồn vui, khó khăn của cuộc sống kháng chiến. Không chỉ thế, tình đồng chí còn tiếp thêm cho họ sức mạnh để họ vượt qua khó khăn, gian khổ của đời lính:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.”

Câu thơ khắc hoạ hoàn cảnh thực của người lính : thường xuyên phải chống chọi với những cơn sốt rét rừng triền miên. Hình ảnh thơ chân thực, cụ thể, nhịp thơ 3/5 đều đều như những lời kể chuyện nhẹ nhàng mang lại cho ta cảm giác se xót trước những gian khó mà người lính phải trải qua trong cuộc đời chiến đấu.

Những hiện thực trần trụi tưởng như không phải là thơ, nhưng lại gieo vào lòng người đọc bao cảm xúc:

“Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày”

Nhịp thơ nhanh, câu thơ ngắn, kết hợp cùng cấu trúc song hành có tác dụng đặc tả sự thiếu thốn của đời lính trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Ta cũng từng bắt gặp những câu thơ đậm chất hiện thực như thế trong thơ Chính Hữu:

“Súng nặng

Đường trơn

Vai gầy

Áo rách”

(Chính Hữu – Tháng năm ra trận)

Nhưng bất chấp gian khổ, người lính vẫn cười – tiếng cười ngạo nghễ của những con người coi thường khó khăn, tiếng cười được sưởi ấm bằng đôi bàn tay nắm chặt:

“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.”

Câu thơ giản dị, nhẹ nhàng, đậm chất lính. Hai tiếng “thương nhau” được đặt lên đầu câu khiến cho nhịp thơ như lắng lại. “Thương” chứ không phải là “yêu”. Trong “thương” không chỉ có tình yêu mà còn có sự cảm thông, sự xót xa cho nhau. Chính trong tâm thế đó, người lính tìm đến nhau trong cái nắm tay tình nghĩa. Đó là cái nắm tay truyền hơi ấm để giúp đồng đội vượt qua cái giá lạnh nơi núi rừng, cũng là cái nắm tay truyền ý chí chiến đấu, truyền ngọn lửa nhiệt tình cách mạng. Đây là ngọn nguồn tạo nên sức mạnh bất diệt của người lính Việt Nam trong kháng chiến. Những người nông dân vốn chỉ lo “côi cút lùm ăn” (Nguyễn Đình Chiểu), quanh năm gắn bó với ruộng đồng, con trâu, cái cày. Nhưng tình yêu quê hương lên tiếng giục giã họ cất bước lên đường. Những gian khổ là nhiều, những hi sinh là không ít, nhưng tình yêu Tổ quốc và tình đồng chí thiêng liêng đã tiếp thêm sức mạnh để người lính vượt qua những khó khăn thử thách đó, để họ vững tay súng, hoàn thành nhiệm vụ mà Tổ quốc và nhân dân giao phó:

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.”

Ba câu thơ ngắn là sự kết tinh tình đồng chí. Giữa nơi chiến trường khốc liệt, thiên nhiên khắc nghiệt : (rừng hoang, sương muối) hình ảnh những người lính kề vai nhau ngời sáng lên đẹp biết bao ! Nó là sự đối chọi với thiên nhiên khắc nghiệt và sự khốc liệt của hiện thực chiến tranh. Từ “bên” ở đây tương thích với từ “bên” trong câu thơ: “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”. Nhưng nếu như ở trên, hai cá thể vẫn tách biệt (súng – súng ; đầu – đầu) thì đến đây, từ “bên nhau” cho ta thấy một sự gắn kết trọn vẹn giữa những người lính. Họ kề vai sát cánh cùng nhau, truyền cho nhau hơi ấm, sức mạnh và niềm tin để thực hiện nhiệm vụ giữ gìn, bảo vệ Tổ quốc. Có thể nói, chính hoàn cảnh khắc nghiệt của núi rừng hoang lạnh, hiểm nguy lại là nơi thử thách tình đồng đội thiêng liêng cao cả của những người lính. Hình ảnh họ toả sáng trong câu thơ kết bất ngờ, độc đáo:

“Đầu súng trăng treo”

Đây là hình ảnh độc đáo, kết tinh giá trị nghệ thuật của cả bài thơ. Chính Hữu từng tâm sự: “Trong chiến dịch, nhiều đêm có trăng. Phục kích giặc trong đêm trước mắt tôi chỉ có ba nhân vật : khẩu súng, vầng trăng và người bạn chiến đấu. Ba nhân vật quyện lại với nhau thành hình ảnh “Đầu súng trăng treo”. Tưởng như không hề có sự dụng công nghệ thuật trong hình ảnh đó, vậy mà nó đưa lại cho người đọc khoái cảm thẩm mĩ thật đặc biệt. Nhịp thơ 2/2 “như nhịp lắc của một cái gì lơ lửng, chông chênh trong sự bát ngát” (Chính Hữu). Súng và trăng như cũng tạo thành một cặp đồng chí, góp phần soi rọi, tô sáng hơn vẻ đẹp của cặp đồng chí kia, mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Súng tượng trưng cho khói lửa chiến tranh, trăng tượng trưng cho cuộc sống thanh bình. Súng và trăng vừa đối lập lại vừa hài hoà, một bên là hiện thực, một bên là ước mơ. Ta nhận ra trong câu thơ sự kết hợp hài hoà giữa tâm hồn chiến sĩ và thi sĩ, giữa chất hiện thực đằm sâu và chất lãng mạn bay bổng. Đó chính là yếu tố làm nên giá trị độc đáo của câu thơ này.

Kết bài

“Trong bài Đồng chí, tôi muốn nhấn mạnh đến tình đồng đội. Suốt cả cuộc chiến đấu, chỉ có một chỗ dựa dường như là duy nhất để tồn tại, để chiến đấu, là tình đồng chí, đồng đội” (Chính Hữu).

Cả bài thơ là khúc ca về tình cảm chân thành, thiêng liêng của những người lính nông dân. Từ những miền quê nghèo khác nhau trên dải đất hình chữ S, cùng chung sự khốn khó, chung lí tưởng chiến đấu, họ đến với nhau, giản dị mà chân thành. Bài thơ sẽ còn ngân vang mãi trong trái tim, tâm hồn mỗi người dân Việt Nam như một biểu tượng đẹp về tình đồng chí bất tử!

Văn chương nghệ thuật cần đến những con người biết nhìn hiện thực bằng trái tim. Chính Hữu đã đem hiện thực vào trang viết của mình một cách tự nhiên nhưng đồng thời cũng đặt vào bức tranh ấy một viên ngọc sáng thuần khiết nhất, đó là tình đồng chí đồng đội keo sơn thắm thiết. Để rồi khi thời gian trôi qua, tác phẩm trở thành bài ca không quên trong lòng bạn đọc.

Hùng Cường