Một số bài văn mẫu nghị luận văn học lớp 12 hay nhất
Xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh đang trong quá trình ôn tập một số bài nghị luận văn học lớp 12 hay nhất, giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi môn Ngữ Văn tốt nghiệp THPT sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.
- Đề 1: Phân tích hình ảnh nắm lá ngón trong Vợ chồng A Phủ
- Dàn ý
- Bài làm
- Đề 2: Phân tích vẻ đẹp tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống trong Vợ nhặt
- Dàn ý
- Bài làm
- Đề 3: Phân tích sự đối lập giữa vẻ đẹp của hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa và cảnh bạo lực ở gia đình hàng chài
- Dàn ý
- Bài làm
- Đề 4: Phân tích bi kịch của Trương Ba trong tác phẩm Hồn trương ba, da hàng thịt
- Dàn ý
- Bài làm
- Đề 5: Phân tích vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong bài thơ Sóng
- Dàn ý
- Bài làm
- Đề 6: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
- Dàn ý
- Bài làm
- Đề 7: Phân tích vẻ đẹp của dòng sông Hương khi ở thượng nguồn
- Dàn ý
- Bài làm
- Đề 8: Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
- Dàn ý
- Bài làm
Đề 1: Phân tích hình ảnh nắm lá ngón trong Vợ chồng A Phủ
Dàn ý
1. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm và chi tiết “nắm lá ngón”
Tô Hoài là một trong những nhà văn ưu tú của văn đàn Việt Nam
Tác phẩm của ông thường là truyện ngắn và bút kí viết về thiên nhiên và đời sống thôn quê.
Năm 1952, trong chuyến đi dài tám tháng lên Tây Bắc, Tô Hoài đã cho ra tập truyện “Tây Bắc”, đặc sắc với tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” để rồi từ đó,
Chi tiết “lá ngón” trở thành một trong những chi tiết nghệ thuật đặc trưng, mang nhiều tầng ý nghĩa và để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm tưởng độc giả Việt Nam.
2. Thân bài
a) Khẳng định vai trò của chi tiết trong tác phẩm văn xuôi & khái quát nội dung chính tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”
Cũng như nhãn tự trong một bài thơ, chi tiết nghệ thuật có vị trí vô cùng quan trọng đối với tác phẩm văn xuôi, nó có thể thâu tóm linh hồn của tác phẩm. Và dù thời gian trôi qua, tác giả không còn nữa thì khi nhắc đến chi tiết nghệ thuật liền nhớ lại nội dung tác phẩm. Điều đó kể như không bỏ công người nằm xuống.
Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” được sáng tác khi Tô Hoài tham gia kháng chiến, căn cứ hoạt động ở miền cao Tây Bắc. Câu chuyện là cuộc đời tủi nhục của Mị và A Phủ – hai mảnh đời có số phận bất hạnh gần như nhau, đại diện cho những kiếp đời lầm than dưới ách thống trị tàn ác của bọn thực dân phong kiến. Họ gặp nhau, tự giải thoát và tìm đến Cách mạng như một lẽ hiển nhiên, biểu trưng cho con đường tìm đến Cách mạng, tìm đến giải phóng và tự do của đồng bào miền cao Tây Bắc.
b) Chi tiết “lá ngón” xuất hiện ba lần trong tác phẩm và chỉ gắn liền với nhân vật Mị
* Lần 1: “Mị ném nắm lá ngón xuống đất, nắm lá ngón Mị đã tìm hái trong rừng, Mị vẫn giấu trong áo”- định ăn lá ngón để tự tử -> ý thức về cuộc sống tủi nhục của mình -> không chấp nhận kiếp sống “người-vật”.
- Ý nghĩa:
“Lá ngón” xuất hiện lần đầu tiên như một lối thoát. Đây là lối thoát ngắn và hữu hiệu nhất, sự phản kháng quyết liệt nhưng vô vọng – một hình thức phản kháng bị động.
Sự xuất hiện của “lá ngón” lúc này mang tầm ý nghĩa tố cáo xã hội ép buộc con người lương thiện đi tìm cái chết.
Lá ngón cũng là hiện thân cho nỗi thống khổ của nhân dân, cho những tích tụ đắng cay, đầy đau đớn và uất hận.
Tự mình tìm đến lá ngón – độc dược của rừng xanh là sự can đảm của người con gái. Nhưng ném đi độc dược để tiếp tục sống khổ lại càng can đảm hơn. Đối với Mị, thà chết đi hơn sống nhục, nhưng rồi lại thà sống nhục còn hơn bất hiếu. Chính chữ hiếu là bản lĩnh cao đẹp nơi người con gái trẻ.
“Lá ngón” như vậy, đã mang một tầng ý nghĩa nhân sinh tuy bản thân tượng trưng cho cái chết. Tìm đến cái chết như một phương tiện giải thoát chính là hành động để khẳng định lòng ham sống, khát vọng tự do. Điều đó cho thấy, phải tha thiết sống lắm thì khi mất nó người ta mới muốn chết ngay đi. Còn khi niềm khao khát sống, khao khát hạnh phúc đã băng giá lại thì cũng chẳng còn gì thúc đẩy người ta nghĩ về cái chết. Đó là lí do cắt nghĩa vì sao khi người cha đã mất rồi mà ý nghĩ về nắm lá ngón không trở lại với Mị, chừng nào cô còn là một cái bóng vật vờ trôi theo guồng công việc và không còn nhớ đến cả sự xót thương mình.
*Lần 2 : “Lần lần, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”
Người thân duy nhất qua đời nhưng cái thôi thúc giải thoát trong Mị nay đã tắt. Mị không còn nghĩ đến đấu tranh bởi lẽ sống hay chết đối với cô lúc này không quan trọng nữa và đương nhiên “lá ngón” cũng chẳng còn trong tâm trí đã ngủ quên. Đó chính là sự xuất hiện lần thứ hai của “lá ngón” vì ở lần này, “lá ngón” xuất hiện bằng cách ra đi. Lá ngón phai mờ tượng trưng cho sự ham sống đã nguội lạnh.
*Lần 3 : Trong đêm tình xuân: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”.
Tiếng sáo gọi bạn làm Mị nhớ lại những tháng ngày tươi đẹp trong quá khứ
Mị lấy rượu ra uống “ực từng bát”- Mị đang uống khát khao, mơ ước, căm hận vào lòng, nhưng càng uống càng tỉnh, nhớ lại mình ngày xưa, so với mình hiện tại, giật mình cho những gì bấy lâu phải chịu đựng, ý thức cá nhân dâng lên mạnh mẽ, không thể chấp nhận nhục nhã đớn đau trong cái cảnh “sống không ra người”, không thể tự do thể xác, lá ngón một lần nữa xuất hiện. Khi muốn giải thoát, Mị tìm tới lá ngón; khi Mị muốn chết, lá ngón lại hiện về “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”. Lá ngón lại lần nữa xuất hiện với tầng ý nghĩa giải thoát, nhưng được lên một nấc của “sự tự ý thức”, đánh dấu sự trở lại của ý thức sống, đánh dấu sự thức tỉnh của một tâm hồn tưởng chừng như đã “chết đi trong cõi sống”.
Lần xuất hiện này của lá ngón là quan trọng nhất, mạnh mẽ nhất. Mị nghĩ đến lá ngón với sự cương quyết tột cùng, trạng thái phẫn nộ và ý thức rõ nhất vì giờ đây, cô không còn gì để hối tiếc. Tuổi xuân đầu đời – thời gian đẹp nhất – nay đã hết, cha già – nguồn yêu thương vô tận cũng không còn. Lòng Mị nay là cõi chết. Lá ngón đối với nàng không là liều thuốc độc, mà trở thành thứ phương tiện, hình thức, con đường để đi đến một bến bờ khác không còn đớn đau, Mị tìm đến lá ngón là tìm đến cái chết như một sự tự cứu và phản kháng.
*Tiểu kết: Mị là hình ảnh của đồng bào miền cao Tây Bắc sống kiếp nô cầm trong xã hội của bọn thực dân phong kiến, cũng như đồng bào miền xuôi hay khắp mọi miền đất nước khi ánh sáng cách mạng chưa kịp soi sáng. Mị cũng có sự tự tôn của mình, nhưng để bảo vệ sự tự tôn ấy, cô đã chọn lá ngón. Và có lẽ, đó là lẽ đương nhiên đối với một cô gái đơn độc có tâm hồn quá sáng trong nhưng vị thế lại quá nhỏ nhoi, nhất là khi ánh sáng cách mạng chưa thể rọi đến Hồng Ngài xa xăm. Xuất sắc chấm màu xanh lá ngón vào bức tranh xô bồ của thời cuộc, Tô Hoài đã đưa “lá ngón” từ chỗ độc dược ngàn đời của núi rừng, là cái chết từ thiên nhiên, nay bỗng nhiên lại là sự giải thoát. Lá ngón xuất hiện ba lần với ba tầng ý nghĩa ngày càng sâu sắc hơn, dữ dội hơn. Cái độc của lá ngón vậy ra vẫn còn thua cái độc của xã hội. Lá càng độc là đớn đau đồng bào chịu càng nhiều. Lá ngón trở thành dấu hiệu báo động cho sự khẩn thiết, cầu cứu của đồng bào miền cao đối với Cách mạng còn quá xa và cũng chính là tư tưởng nhân đạo cao đẹp mà tác giả muốn gửi gắm đến chúng ta qua hồn thiêng gió núi của đại ngàn Tây Bắc xa xăm.
3. Kết bài:
Khẳng định lại một lần nữa vai trò quan trọng của chi tiết “nắm lá ngón” tron tác phẩm Vợ chồng A Phủ
Thông qua chi tiết lá ngón, người đọc cảm nhận được những vẻ đẹp tâm hồn của người con gái vùng cao.
Bài làm
Hình ảnh “lá ngón” xuất hiện ba lần trong tác phẩm và chỉ gắn liền với nhân vật Mị - người con gái miền cao lương thiện, xinh đẹp, tài hoa nhưng cuộc đời nhiều bất hạnh.
Cô tìm về cha già, tay cầm nắm lá ngón. “Lá ngón” xuất hiện lần đầu tiên như một lối thoát đen. Đây là lối thoát ngắn và hữu hiệu nhất. Nhưng lại là lối thoát cho những ai muốn chấm dứt hiện tại nghiệt ngã chứ không phải lối thoát cho người muốn sang trang mới. Rõ ràng, đây là sự phản kháng quyết liệt nhưng vô vọng - một hình thức phản kháng bị động. Và sự xuất hiện của “lá ngón” lúc này mang tầm ý nghĩa tố cáo cao độ: Sự dã man của xã hội ép buộc con người lương thiện đi tìm cái chết. Nó - lá ngón, cũng là hiện thân cho nỗi thống khổ của nhân dân, cho những tích tụ đắng cay, đầy đau đớn và uất hận. Cô ném phịch xuống đất nắm lá ngón mình tự tìm hái trong rừng như một sự chuẩn bị sẵn sàng trước đó, ném trong nước mắt. Tự mình tìm đến lá ngón - độc dược của rừng xanh - đã là sự can đảm của người con gái. Nhưng ném đi độc dược để tiếp tục sống khổ lại càng can đảm hơn. Đối với Mị, thà chết đi hơn sống nhục, nhưng rồi lại thà sống nhục còn hơn bất hiếu. Chính chữ hiếu là bản lĩnh cao đẹp nơi người con gái trẻ. Đó cũng chính là nguyên nhân cốt yếu cho sự can đảm bán mình chuộc cha của Vương Thúy Kiều trong “Đoạn trường tân thanh” của đại thi hào Nguyễn Du. Cả hai người con gái tài năng, sắc diện và nhân phẩm tuyệt vời, điều đó kết cục chung vì chế độ xấu xa mục rữa, những thiên hương vô phúc sinh nhầm thời, những cánh hoa trôi dạt trong bão dữ. “Lá ngón” như vậy, đã mang một tầng ý nghĩa nhân sinh tuy bản thân tượng trưng cho cái chết.
Hình ảnh lá ngón, giờ cũng chẳng còn theo tâm trí Mị nữa. Bởi “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Ở người con gái ấy, chẳng còn ý thức muốn phản kháng, muốn đấu tranh, chẳng còn muốn chết nữa. Nhưng chính men say của rượu và men tình của cảnh đã khơi dậy trong Mị những cảm xúc, giác quan, hồi ức và khát vọng tưởng như đã mất. Mị như sống lại những đêm về trước, “Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi”. Nhưng sực tỉnh trong thực tại, nhìn vào thân phận mình, Mị lại đau đớn thay. “Nếu có nắm lá ngón trong tay, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”. Khi khổ cực đắng cay nhất, khi muốn chết nhất, Mị đã tìm tới lá ngón. Nhưng ở đây, ngay cả trong khi sự sống đã tìm về, khát vọng sống đang nhen nhóm trong lòng, Mị vẫn cứ hướng về lá ngón – về cái chết. Lá ngón ở đây lại là biểu hiện cao nhất của sự sống, của khát vọng được sống cho nên “Người”, là chính mình, sống với tuổi thanh xuân và tình yêu của mình. Như vậy, lá ngón lại là hiện thân của sự sống, của sự giải thoát, sự giải thoát cuối cùng. Như cách mà Thúy Kiều chọn tự kết liễu để giữ lại chữ “tiết” hay Chí Phèo tự kết liễu đời mình để nhất định không chịu quay lại kiếp sống tha hóa, bị đồng loại ruồng bỏ như trước nữa.
Đến lần thứ ba xuất hiện, suy nghĩ về việc ăn nắm lá ngón xuất hiện trở lại trong tâm trí Mị vào đêm tình mùa xuân. Nghe tiếng sáo “thiết tha bổi hổi”, “bay lơ lửng ngoài kia”, Mị nhẩm thầm lời bài hát và nhận ra mình còn trẻ, mình cũng muốn đi chơi nhưng cái thực tại này chẳng cho Mị có cơ hội được đi chơi, được ra ngoài kia cảm nhận sức sống xuân mơn mởn khắp đất trời cảnh vật, hòa mình vào không khí xuân vui tươi, rộn ràng âm thanh. Nghĩ vậy, Mị lại một lần nữa muốn ăn lá ngón. Chi tiết lá ngón lúc này đã tô đậm bi kịch khổ đau cuộc đời Mị. Đồng thời chi tiết cũng ngầm khẳng định rằng ý thức về thân phận, về quyền sống, quyền tự do hạnh phúc vẫn chưa thực sự lụi tắt. Sức sống, niềm khát khao ấy vẫn đang âm ỉ trong trái tim, tâm hồn Mị mà chưa có cơ hội bùng lên giúp Mị vượt thoát thực tại.
Dù chỉ là một chi tiết nhỏ nhưng nói được nhiều hơn nó. Nằm lá ngón là biểu tượng của sự cùng cực, tuyệt vọng của con người. Cũng nắm lá ngón ấy lại là hiện thân của khát vọng sống một cách mãnh liệt, sống chân thành và sống là chính mình. Nó vừa cao đẹp nhưng lại khổ đau, nó hướng tới sự lạc quan nhưng đành chọn cách bi quan như sự giải quyết cuối cùng. Qua đó là tiếng nói xót thương cho số phận, không chỉ người phụ nữ mà còn là con người còn đang phải chịu bất công, khổ đau của xã hội cũ; tiếng nói lên án và tố cáo mạnh mẽ. Nó trở thành tiếng còi cảnh bảo cho sự cầu khẩn của đồng bào mong muốn tìm một cách giải thoát, khát khao tìm ra con đường tốt đẹp hơn. Đó chính là tiền đề để nhà văn khéo léo khẳng định con đường bền vững nhất là con đường tự khai phá và giải phóng chính mình, lựa chọn tốt đẹp nhất chính là biết tự đứng lên, để Cách mạng có thể dẫn bước. Những chi tiết dù là nhỏ nhất, dưới bàn tay người nghệ sĩ tài hoa, được điêu khắc và miêu tả một cách tỉ mỉ, để từ đó làm nổi bật ý nghĩa tư tưởng câu chuyện.
Đề 2: Phân tích vẻ đẹp tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống trong Vợ nhặt
Dàn ý
1. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Giới thiệu vấn đề cần phân tích.
2. Thân bài:
* Bối cảnh truyện ngắn:
- Diễn ra vào giữa nạn đói năm 1944-1945, khiến hơn hai triệu đồng bào ta ở miền Bắc phải chịu cảnh chết đói.
- Ở xóm ngụ cư:
+ Cảnh người dân từ khắp nơi bồng bế, dìu dắt, thất thểu đi trên đường làng, ai nấy đều "xanh xám như bóng ma", người đói "ngổn ngang khắp lều chợ".
+ "người chết như ngả rạ", "không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người". Bao trùm lên toàn bộ không gian ấy là tiếng quạ kêu thảm thiết từng hồi, như một loại kèn quái dị đưa ma những kẻ xấu số, chết không có chỗ chôn.
* Nhân vật Tràng:
- Là một người dân ngụ cư, xấu xí, và nghèo đói, tính tình vô tư không lo nghĩ, chính vì thế Tràng không có nổi một tấm vợ. Ngày ngày anh làm nghề kéo xe bò thuê để kiếm miếng ăn.
- Tuy nhiên cuộc đời khốn khó và bế tắc của Tràng bỗng có một bước ngoặt lơn khi anh "nhặt" được một cô vợ giữa buổi đói kém. Một cô vợ theo không anh chỉ sau hai lần gặp gỡ và bốn bát bánh đúc.
- Ban đầu anh cũng không có cái gọi là tình yêu trai gái gì với thị, chỉ đơn giản rằng anh đồng cảm, thương xót cho người đàn bà khốn khổ đã đói đến mức vật vờ, sắp chết nên đãi thị bốn bát bánh đúc => Lòng lương thiện, là tình người khi sống với nhau ở trên đời của Tràng.
- Khi đã thành vợ, thành chồng, Tràng cảm thấy mình có nghĩa vụ phải săn sóc và quan tâm đến cái người đàn bà đang đi bên cạnh mình. Tràng bỗng lột xác trở thành một người đàn ông tinh tế:
+ Thấy vợ rách nát tàn tạ quá, lại không có đồ đạc gì ngoài cái nón rách, anh dẫn thị vào chợ huyện mua lấy một cái thúng con và vài đồ lặt vặt.
+ Mua hai hào dầu về thắp đèn, cho cửa sáng sủa để đón thị về làm dâu.
=> Tràng bỗng nhiên trưởng thành hơn trong nhận thức, thứ tình cảm với thị không chỉ còn nằm ở lòng thương hại, mà giờ đây đã trở thành tình thân, tình yêu, thứ tình cảm ấy khiến con người ta trưởng thành, nhân hậu và tinh tế hơn hẳn.
- "Trong một lúc Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt". Tình yêu, hạnh phúc lứa đôi đã xóa mờ đi tất cả những khó khăn chất chồng, sự đe dọa của đói kém, mở ra trong lòng nhân vật những cảm xúc, những hy vọng mới mẻ, niềm tin mãnh liệt về một cuộc sống khấm khá hơn.
- Sau đêm tân hôn, Tràng về niềm hy vọng vào một cuộc sống tương lai tốt đẹp đang đón chờ của nhân vật.
- Hình ảnh "đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới" chính là giải pháp, là niềm tin, niềm hy vọng mới của Tràng, mở ra cho anh một con đường sáng, đưa cả gia đình thoát khỏi cảnh bế tắc và tối tăm.
* Nhân vật thị:
- Không tên tuổi, quê quán, dân ngụ cư, cong cớn sưng sỉa vì miếng ăn, cuối cùng theo không anh Tràng cũng vì miếng ăn.
- Khao khát được sống, cầu được sống, thị trân trọng mạng sống của mình, thế nên thị buộc phải cong cớn, sưng sỉa để được ăn và cuối cùng là về làm vợ Tràng.
- Khi nhìn thấy cái căn chòi rách nát của Tràng thị đã không khỏi thất vọng, thở dài, thế nhưng thị chọn im lặng, quyết tâm cùng chồng vun vén, tạo dựng hạnh phúc cho gia đình.
=> Thị vẫn còn nhớ cái ân nghĩa của người chồng cho thị 4 bát bánh đúc, cứu thị khỏi chết đói, và thị cảm động bởi cái sự săn sóc của Tràng.
- Thị càng trân quý hơn cái tình cảm của bà mẹ chồng dành cho mình, bà đã không chê thị là loại con dâu theo không, trái lại còn bảo ban, săn sóc.
- Sau đêm tân hôn, thị đã dậy sớm, ra sức vun vén, thu dọn nhà cửa, đem quần áo rách ra phơi, gánh đầy hai ang nước, quét sân, trang hoàng nhà cửa, lột xác trở thành một người phụ nữ đảm đang tháo vát, biết chăm lo => Sự trân quý thứ tình thân vừa mới có được và thị muốn hết lòng vì nó.
- Trước món "chè khoán", đắng ngắt và khó khăn, thị đã giấu đi nỗi thất vọng và buồn tủi của mình cốt để bà cụ khỏi buồn, và không phá vỡ đi cái không khí gia đình đang đầm ấm, yên vui này.
- Niềm hy vọng vào cuộc sống rất mãnh liệt, thị đã nhắc đến chuyện người ta đi phá kho thóc của nhật, và lòng thị cũng dần rộn lên những suy nghĩ về việc đi cướp thóc, cải thiện cuộc sống.
* Bà cụ Tứ:
- Nghèo khó cả đời buôn ba khốn khổ nuôi con khôn lớn, khi con lớn rồi thì bà lại cứ mãi day dứt về chuyện không thể cưới nổi vợ cho con.
- Xót xa cho cái phận mình, phận con lấy vợ ngay giữa nạn đói, không cỗ bàn, cưới hỏi, giữa cái không khí thê thảm, tiêu điều của làng xóm, lo lắng một nỗi rằng không biết rồi đôi vợ chồng có thể dìu dắt nhau qua được cái nạn đói khủng khiếp này không. = > Tấm lòng thương con sâu sắc.
- Nhanh chóng lạc quan và thông suốt bà thương con và thương cả người đàn bà đã theo con mình, phải vào bước đường cùng thì người ta mới chịu lấy con mình, vì thế bà lại càng thêm quý trọng mối nhân duyên này.
- Xuất phát từ tấm lòng của người mẹ bao dung, nhân hậu bà liên tục cho các con những lời dặn dò, động viên tinh thần để các con chăm lo làm ăn, ổn định cuộc sống, cùng xây dựng hạnh phúc gia đình.
- Bà cụ đã xua đi cái không khí u ám, buồn rầu của nạn đói bằng cách liên tục kể các câu chuyện vui, gieo vào lòng con trai con dâu những niềm tin, niềm hy vọng vào tương lai tươi sáng với các kế hoạch làm ăn, nuôi gà,... vạch ra một chặng đường tương lai đầy hứa hẹn khiến không khí gia đình trở nên sôi nổi, hạnh phúc.
- Hình ảnh nồi chè khoán là tấm lòng của người mẹ, đang cố xua đi những cái đói, cái u ám của sự tử vong dần lan trên xóm ngụ cư.
3. Kết bài:
- Nêu cảm nhận.
Bài làm
Kim Lân là nhà văn có sở trường về đề tài nông thôn, người nông dân, những tác phẩm của ông không chỉ hướng đến thể hiện những hiện tượng nổi bật của xã hội đương thời mà còn thể hiện được tinh thần nhân đạo sâu sắc. Ông sáng tác không nhiều nhưng những sáng tác đều mang giá trị cao. Vợ nhặt là tác phẩm đặc sắc của Kim Lân khi viết đề đề tài nạn đói năm 1945. Viết về nạn đói nhưng Vợ nhặt không nhằm mục đích phơi bày cái chết chóc, đau thương của nạn đói mà từ cảnh ngộ của mỗi nhân vật, tác giả đã thể hiện được hơi ấm của tình người cũng như niềm hi vọng vào cuộc sống, điều này được thể hiện rõ nét qua các nhân vật: anh Tràng, chị vợ nhặt, bà cụ Tứ.
Vợ nhặt viết về nạn đói khủng khiếp năm 1945, nạn đói hoành hành khiến cho không gian xã hội trở nên ngột ngạt, tù túng với ám ảnh khủng khiếp về cái chết. Từ đầu phố đến cuối ngõ là cảnh người chết như ngả rạ, người sống thì lay lắt, vật vờ như những bóng ma, đó là những con người đáng thương đang đứng trên bờ vực của sự sống và cái chết. Tuy nhiên, cũng trên cái nền đen tối, ám ảnh khủng khiếp bởi nạn đói, sự chết chóc ấy vẫn nổi bật lên ánh sáng của tình người, của niềm hi vọng vào sự sống. Trong những hoàn cảnh khốn cùng nhất, những con người khốn khổ vẫn không đánh mất đi những nét đẹp vốn có của mình mà vẫn ánh lên vẻ đẹp của tình thương, của niềm hi vọng.
Tràng là người đàn ông xấu xí, nghèo khổ sống ở xóm Ngụ cư, tuy nhiên trái với vẻ ngoài xấu xí, gia cảnh nghèo hèn bên ngoài, Tràng hiện lên là một con người ấm áp, giàu tình thương. Tràng chấp nhận cưu mang người đàn bà xa lạ, đói rách mà bỏ mặc những gánh nặng khủng khiếp của thời kỳ đói khát. Không những thế, sau khi vô tình “nhặt” được vợ, Tràng đã không tỏ thái độ coi thường mà ngược lại rất trân trọng đối với người vợ nhặt này.
Trong đêm đầu tiên vợ về nhà, Tràng đã bỏ 2 hào mua dầu, đây được coi là hành động hào phóng, bởi trong nạn đói nhu cầu cấp thiết là miếng ăn nhưng anh Tràng đã bỏ tiền mua dầu để làm cho đêm đầu tiên vợ về nhà trở nên đặc biệt hơn. Sau khi có vợ, Tràng ý thức được việc mình đã có vợ, đã có một gia đình nhỏ đúng nghĩa, từ đó thấy mình có trách nhiệm lo cho vợ, cho gia đình.
Người vợ nhặt là người đàn bà khốn khổ bị nạn đói vắt kiệt sự sống, thể hiện ở thân hình tiều tụy, vẻ ngoài rách rưới, ban đầu chị ta tạo ấn tượng với người đọc với vẻ chao chát, chỏng lỏn không kém phần vô duyên khi vô tư đòi anh Tràng trả công đẩy xe bò. Tuy nhiên, từ khi theo anh Tràng về làm vợ thì người đàn bà ấy đã thay đổi hẳn, không còn sự chao chát, chỏng lỏn mà đã trở thành người vợ hiền hậu đúng mực. Khi chứng kiến gia cảnh nghèo khó của anh Tràng, dù thất vọng nhưng chị ta vẫn cố giấu sự thất vọng trong ánh mắt tối lại, trong tiếng thở dài cố nén.
Dù có chút buồn, thất vọng khi chứng kiến hoàn cảnh nghèo khó của anh Tràng nhưng khát khao hạnh phúc vẫn nhen nhóm để người đàn bà ấy chủ động nắm giữ, chủ động vun vén hạnh phúc gia đình: cùng mẹ chồng dọn dẹp nhà cửa, trong phần cuối tác phẩm chị vợ nhặt cũng đã thoáng nghĩ đến sự thay đổi, hy vọng vào một tương lai tươi sáng của cuộc sống thể hiện qua chi tiết nhắc đến chuyện ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế, phá kho thóc Nhật chia cho người nghèo.
Nhân vật bà cụ Tứ đã thể hiện rõ nét nhất vẻ đẹp của tình người. Trước tình thế bất ngờ khi anh con trai dẫn về người đàn bà lạ mặt, bà cụ Tứ không tỏ ra rẻ rúng, coi thường đối với người phụ nữ theo không con mình về làm vợ “Ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”, sau giây phút ngạc nhiên bà đã chấp nhận người đàn bà như dâu con trong nhà.
Trước hạnh phúc bất ngờ của con trai, bà vừa mừng cho con, vừa tủi cho mình vì thân là mẹ mà chẳng thể lo cho con, để con phải “nhặt” vợ trong cảnh túng đói. Bao cảm xúc phức tạp từ vui mừng, lo lắng, buồn tủi, hi vọng của bà cụ Tứ đều xuất phát từ tấm lòng thương con của bà.
Không chỉ thương con mà bà cụ Tứ còn có niềm tin mãnh liệt vào tương lai, bà không ngừng động viên các con chịu khó làm ăn với triết lí dân gian “Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”, hướng các con đến ánh sáng của tương lai. Để tạo ra sự đổi thay của cuộc sống, bà cụ Tứ đã cùng con dâu dọn dẹp nhà cửa, nói những câu chuyện về tương lai.
Thông qua ba nhân vật Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ, nhà văn Kim Lân đã thể hiện nỗi đồng cảm với số phận của con người, đồng thời thể hiện sự trân trọng đối với sức mạnh của tình thương, của niềm hy vọng có thể vượt lên mọi ám ảnh đói khát để tỏa rạng.
Đề 3: Phân tích sự đối lập giữa vẻ đẹp của hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa và cảnh bạo lực ở gia đình hàng chài
Dàn ý
1. Mở bài:
- Giới thiệu chung về tác giả và tác phẩm
* Tác giả
Quê quán: huyện Quỳnh Lưu – tỉnh Nghệ An.
Gia nhập quân đội năm 20 tuổi.
Từ năm 32 tuổi, tác giả chuyển sang hoạt động văn nghệ và chính thức trở thành nhà văn quân đôi.
* Sự nghiệp sáng tác:
- Vị trí: Là cây bút đi tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới.
- Phong cách nghệ thuật:
Trước 1975: Là cây bút sử thi có khuynh hướng trữ tình lãng mạn.
Sau 1975 (đầu những năm 1980): Chuyển sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh.
-> Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000.
2. Thân bài:
* Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa gắn liền với phát hiện thứ nhất - về cái tuyệt mĩ, tuyệt thiện:
- “Cảnh đắt trời cho”:
Hình ảnh chiếc thuyền thơ mộng, thanh bình xuất hiện giữa bầu sương mù trắng như sữa lại pha chút hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào.
Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im như tượng trên chiếc mui khum khum đang hướng mặt vào bờ.
-> Là bức họa diệu kỳ do thiên nhiên, cuộc sống ban tặng cho con người; là sản phẩm quý hiếm của hóa công mà trong đời người nghệ sĩ nhiếp ảnh nào cũng khao khát được chứng kiến.
- Cảm nhận của người nghệ sĩ:
Thấy rung động.
Thấy tâm hồn mình được thanh lọc, gột rửa.
Thấy hạnh phúc.
* Hình ảnh bạo lực trên thuyền gắn liền với phát hiện về cuộc sống của người nghệ sĩ.
Đằng sau cái đẹp toàn mỹ là hiện thân của cái xấu, là hiện thực trần trụi: bước ra khỏi chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ là người đàn bà xấu xí trạc ngoài 40 tuổi, rỗ mặt…Đi sau người đàn bà là người đàn ông cao lớn, dữ dằn, tấm lưng rộng và cong như lưng của một chiếc thuyền…
Đằng sau cái đẹp được gọi là toàn thiện là hiện thân của cái ác, là cảnh tượng tàn nhẫn, điển hình của bạo lực gia đình: người đàn bà đi trước, người đàn ông lẳng lặng đi sau không nói câu nào…đột nhiên bỗng trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay,…, dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp lên người của người đàn bà, người đàn bà đứng im không chống trả, đứa bé chạy ra…
-> Cảm nhận của nghệ sĩ Phùng: “kinh ngạc đến thẫn thờ”, “mấy phút đầu cứ đứng há mồm ra mà nhìn”, “chết lặng”…
=> Nhận xét:
- Nhận thức của người nghệ sĩ: Cuộc sống không hề đơn giản, xuôi chiều mà chứa đựng rất nhiều nghịch lý. Cuộc sống luôn tồn tại những điều tốt – xấu, thiện – ác.
- Sứ mệnh người nghệ sĩ: Đừng bao giờ nhầm lẫn hiện tượng và bản chất, đừng bao giờ nhầm lẫn giữa hình thức bề ngoài với nội dung thực chất bên trong, đừng vội đánh giá sự vật, con người ở dáng vẻ bên ngoài mà phải tìm hiểu thực chất bề sâu đằng sau vẻ ngoài ấy.
3. Kết bài:
- Mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời: Tồn tại những khoảng cách và mâu thuẫn, người nghệ sĩ phải có cái nhìn toàn diện.
Bài làm
Nhắc đến Nguyễn Minh Châu là ta nhắc đến một nhà văn chủ nghĩa hiện thực tiêu biểu của nền văn học Việt Nam. Từng khoác trên mình áo lính trước những năm 1975 và cho đến khi hòa bình lập lại, ông luôn mang trong mình cảm hứng thế sự về cuộc đời, về con người và những triết lí nhân sinh vô cùng sâu sắc được thể hiện trực tiếp vào trong các truyện ngắn của mình tiêu biểu là các truyện như “Mảnh trăng cuối rừng”, Bến quê”, “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”. Đặc biệt là truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” thông qua nhân vật Phùng, nhà văn đã nói lên được sự đối lập giữa vẻ đẹp của hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa và cảnh bạo lực gia đình hàng chài. Cùng viết về sự đối lập nhưng với Thạch Lam trong truyện “Hai đứa trẻ” lại là cảnh phố huyện lúc đêm khuya và hình ảnh đoàn tàu. Mỗi nhà văn đều có cách nhìn hiện thực khác nhau nhưng đều mang lại cho người đọc cái nhìn riêng biệt chân thực của cuộc sống.
Được sáng tác sau năm 1975 và được in trong tập truyện “Bến quê” có thể nói rằng “Chiếc thuyền ngoài xa” là một truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Minh Châu khi mang đậm yếu tố tự sự, triết lí của nhà văn giữa nghệ thuật và cuộc đời con người. Chuyện kể về nhân vật Phùng - một nhiếp ảnh gia tài hoa về chụp ảnh với ước mơ chụp được 1 tấm ảnh thật ưng ý về tháng 7 của biển để in vào cho bộ lịch năm sau. Với ngôn ngữ giản dị xoay quanh người nghệ sĩ nhiếp ảnh với những chiêm nghiệm sâu sắc về chuyến đi thực tế tại một vùng biển của phố huyện nghèo.
Nguyễn Minh Châu đã rất tài tình khi xây dựng câu chuyện xoay quanh sự đối lập giữa cảnh chiếc thuyền ngoài xa với cảnh bạo lực gia đình hàng chài. Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa, được cảm nhận thông qua nhân vật Phùng, chiếc thuyền hiện ra thật đẹp. “Mũi thuyền in một nét mơ hồ vào bầu trời sương mù trắng như sữa pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. Hình ảnh hoàn hảo đến nỗi mà nhân vật Phùng phải thốt lên, ngỡ ngàng trước sự đơn giản và toàn bích, mà anh phải công nhận đó như là “một bức tranh bằng mực Tàu của một danh họa thời cổ”. Đứng trước vẻ đẹp, Phùng dường như bối rối nhưng với trái tim và khối óc của một người nghệ sĩ anh nhanh tay “bấm liên thanh một hồi" thu vào chiếc máy ảnh Praktica của mình cái đẹp “tuyệt đỉnh của ngoại cảnh” mà khó nghệ sĩ nào có thể dễ dàng nắm bắt được.
Chụp hết 1/4 cuốn phim, anh sung sướng đến nỗi thấy có cái như thắt lại trong tim. Anh cảm nhận tâm hồn mình trở nên khác lạ, cảm giác như được khám phá, gột rửa trước vẻ đẹp của bức tranh toàn bích, hoàn mỹ. Đứng trước cái đẹp người nghệ sĩ như chết lặng, chỉ biết thán phục và trầm trồ trước vẻ đẹp. Nắm được vẻ đẹp có một không hai như vậy, Phùng khẳng định, chắc chắn bức tranh ấy sẽ được xuất hiện rất nhiều nơi đặc biệt là những gia đình sành nghệ thuật.
Hình ảnh “chiếc thuyền ngoài xa” đã hóa thân thành một tác phẩm để mọi người nhìn ngắm, từ đường nét bố cục đến màu sắc tất cả đều đạt đến độ hoàn hảo. Một vẻ đẹp hiếm có khó tìm, nhưng Phùng đã bắt trọn được nó, cái cảm giác từng trải khiến anh cảm thấy mãn nguyện trong chuyến đi thực tế lần này. Có thể nói rằng hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa chính là hình ảnh ẩn dụ cho đỉnh cao của nghệ thuật, cho cái đẹp mà bất kể người nghệ sĩ nào cũng muốn hướng tới. Chiếc thuyền ngoài xa còn là biểu tượng cho cảm xúc người nghệ sĩ, sự hoàn thiện của tâm hồn con người khi đứng trước vẻ đẹp.
Nếu cảnh đẹp bao nhiêu khi chiếc thuyền lúc ẩn lúc hiện vào trong sương sớm thì cảnh chiếc thuyền cập bến lại là cảnh nghiệt ngã bấy nhiêu khi từ trong chiếc thuyền ấy hình ảnh một người đàn bà hàng chài bước ra với “khuôn mặt rỗ chằng chịt, mệt mỏi sau một đêm trắng thức kéo lưới, nửa thân dưới thì ướt sũng”. Người đàn ông thì theo sau, mắt thì như dán vào tấm lưng áo bạc phếch của người đàn bà. Cảnh bạo lực gia đình lên cao trào khi nhân vật chính là Phùng chứng kiến người đàn ông rút thắt lưng da của lính Ngụy ngày xưa quất tới tấp vào người phụ nữ, hắn vừa đánh vừa nghiến răng và chửi rủa người đàn bà hàng chài: “mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Thằng bé Phác thấy mẹ bị đánh thế, nó chạy tới xô ngã người đàn ông nhưng cũng bị người đàn ông tát cho hai cái, người đàn bà chỉ biết khóc rồi lại quay lại thuyền.
Câu chuyện bạo lực ấy vẫn tiếp tục diễn ra, cứ “ba ngày một trận nhẹ năm ngày một trận nặng”, người đàn bà hàng chài cũng vì mười đứa con mà nhịn nhục trước đòn roi độc ác, vũ phu của người chồng. Âu cũng vì miếng cơm manh áo, chiếc thuyền là nơi sống, là kế sinh nhai duy nhất của một gia đình, chiếc thuyền ấy cần một người đàn ông chống lại phong ta bão táp, những người con cần một người cha cũng vì thế mà người phụ nữ tội nghiệp ấy cũng phải cúi đầu mà nói với Phùng và Đẩu trong buổi gặp mặt của tòa án, nghe mà xót lòng: “thưa quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được đừng bắt con bỏ nó”.
Khung cảnh bạo lực gia đình ẩn dụ cho cuộc đời số phận, những éo le, nghịch lí trong xã hội. Những số phận con người khổ cực, không biết bao giờ thoát khỏi kiếp nghèo, đông con. Khó khăn cứ mãi quẩn quanh với họ. Bạo lực gia đình và những trận đòn roi biết bao giờ mới chấm dứt.
Sự đối lập giữa hình ảnh chiếc thuyền và cảnh bạo lực gia đình. Với các tình tiết này mở ra hai sự đối lập hoàn toàn trái ngược nhau. Chiếc thuyền khi ngoài xa mang ý nghĩa cho một vẻ đẹp hoàn mĩ của một bức ảnh, khi lại gần đó là một cảnh hiện thực đau thương và nghiệt ngã của số phận con người.
Hình tượng chiếc thuyền ngoài xa là một dụng ý nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Minh Châu khi gửi gắm qua sự đối lập này. Cuộc đời sinh ra cái đẹp, sinh ra nghệ thuật nhưng không phải lúc nào cũng là nghệ thuật, nghệ thuật phải gắn liền với cuộc sống. Người nghệ sĩ không chỉ là người tiếp nhận được vẻ đẹp, chiêm ngưỡng nắm bắt được nghệ thuật mà còn là người phải đi sâu vào thực tế, hiểu và đồng cảm với số phận con người.
Đề 4: Phân tích bi kịch của Trương Ba trong tác phẩm Hồn trương ba, da hàng thịt
Dàn ý
1. Mở bài:
– Giới thiệu vài nét lớn về tác giả, tác phẩm;
– Giới thiệu bi kịch của nhân vật hồn Trương Ba của vở kịch
Lưu Quang Vũ (1948 – 1988) là một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch Việt Nam những năm tám mươi của thế kỷ XX. Ông được coi là nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt nam hiện đại. tác phẩm của ông toát lên một ý vị triết lí và nhân sinh về đời người, kiếp người. Ông có nhiều tác phẩm kịch gây chấn động dư luận , trong đó có vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Trong đoạn trích ( cảnh 7) của vở kịch, tác giả đã diễn tả sâu sắc bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba, một con người phải sống “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”.
2. Thân bài:
Khái quát về tác phẩm : Giới thiệu hoàn cảnh ra đời tác phẩm, xuất xứ tác phẩm, tóm tắt cốt truyện.
“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ, được sáng tác từ năm 1981, nhưng ba năm sau (1984) mới được ra mắt khán giả. Từ cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng lại thành một vở kịch nói hiện đại và lồng vào đó nhiều triết lí nhân văn về cuộc đời và con người. Trong tác phẩm, Trương Ba là một ông lão gần sáu mươi, thích trồng vườn, yêu cái đẹp, tâm hồn thanh nhã, giỏi đánh cờ. Chỉ vì sự tắc trách của Nam Tào gạch nhầm tên mà Trương Ba chết oan. Theo lời khuyên của “tiên cờ” Đế Thích, Nam Tào, Bắc Đẩu “sửa sai” bằng cách cho hồn Trương Ba được tiếp tục sống trong thân xác của anh hàng thịt mới chết gần nhà. Nhưng điều đó lại đưa Trương Ba và một nghịch cảnh khi linh hồn mình phải trú nhờ vào người khác. Do phải sống tạm bợ, lệ thuộc, Trương Ba dần bị xác hàng thịt làm mất đi bản chất trong sạch, ngay thẳng của mình. Ý thức được điều đó, Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác thịt. Qua các cuộc đối thoại của Trương Ba, tác giả dần tạo nên một mạch truyện dẫn dắt người xem hiểu sâu hơn về Trương Ba.
Đoạn trích là phần lớn cảnh VII. Đây cũng là đoạn kết của vở kịch, đúng vào lúc xung đột trung tâm của vở kịch lên đến đỉnh điểm. Sau mấy tháng sống trong tình trạng “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, nhân vật Hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với bạn bè, người thân trong gia đình và tự chán ghét chính mình, muốn thoát ra khỏi nghịch cảnh trớ trêu.
Phân tích bi kịch của nhân vật hồn Trương Ba :
a. Bi kịch tha hóa của nhân vật Trương Ba trong đoạn trích bắt đầu bằng lớp thứ nhất của cảnh 7, đó là màn đối thoại giữa Hồn Trương ba và Xác hàng thịt.
– Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác, nhà viết kịch đã để cho Hồn Trương Ba “ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy” với một lời độc thoại đầy khẩn thiết:”- Không. Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi! . Hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ thể hiện trong những câu cảm thán ngắn, dồn dập cùng với ước nguyện khắc khoải . Hồn bức bối bởi không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi mình không còn là mình nữa. Trương Ba bây giờ vụng về, thô lỗ, phũ phàng lắm. Hồn Trương Ba cũng càng lúc càng rơi vào trạng thái tuyệt vọng.
– Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, Hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối lí bởi xác nói những điều mà dù muốn hay không muốn Hồn vẫn phải thừa nhận : cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với“tay chân run rẩy”, “hơi thở nóng rực”, “cổ nghẹn lại” và “suýt nữa thì…“. Đó là cảm giác “xao xuyến” trước những món ăn mà trước đây Hồn cho là “phàm”. Đó là cái lần ông tát thằng con ông “tóe máu mồm máu mũi”, … Xác anh hàng thịt gợi lại tất cả những sự thật ấy khiến Hồn càng cảm thấy xấu hổ, cảm thấy mình ti tiện. Xác anh hàng thịt còn cười nhạo vào cái lí lẽ mà ông đưa ra để ngụy biện: “Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn, …”. Trong cuộc đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời thoại dài với chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo khi thì lên mặt dạy đời, chỉ, châm chọc. Hồn chỉ buông những lời thoại ngắn với giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng kêu.
– Cuộc đối thoại giữa xác hàng thịt và hồn Trương Ba là cuộc đấu tranh giữa thể xác và linh hồn cùng tồn tại trong một con người. Thể xác và linh hồn có quan hệ hữu cơ với nhau, cả hai gắn bó với nhau để cùng sống, cùng tồn tại. Thể xác có tính độc lập tương đối của nó, có tiếng nói của nó, có khả năng tác động vào linh hồn, vì nó là nơi trú ngụ của linh hồn. Khi thể xác tiêu tan thì linh hồn cũng mất. Khi linh hồn “bay đi” thì thể xác cũng trở về cát bụi. Nhờ có linh hồn đấu tranh, chi phối với những ham muốn, những dục vọng tầm thường của thể xác mà nhân cách được hoàn thiện, tâm hồn được trong sáng. Câu nói của xác hàng thịt: “Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn” đã cho thấy mối quan hệ hữu cơ giữa thể xác và linh hồn, làm cho ý nghĩa ẩn dụ của đoạn đối thoại giữa hồn Trương Ba với xác hàng thịt thêm cụ thể, sâu sắc.
b. Bi kịch Hồn Trương Ba được đẩy lên tới đỉnh điểm, cao trào ở màn đối thoại giữa Hồn Trương Ba với những người thân. Đó là bi kịch bị từ chối.
– Người vợ mà ông rất mực yêu thương giờ đây buồn bã và cứ nhất quyết đòi bỏ đi. Với bà “đi đâu cũng được… còn hơn là thế này”. Bà đã nói ra cái điều mà chính ông cũng đã cảm nhận được: “ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”.
– Cái Gái, cháu ông giờ đây đã không cần phải giữ ý. Nó một mực khước từ tình thân : tôi không phải là cháu ông… Ông nội tôi chết rồi. Cái Gái yêu quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây nó không thể chấp nhận cái con người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “to bè như cái xẻng” đã làm “gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho cu Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó, “Ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy”. Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết liệt: “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”.
– Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương bố chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm, “khổ hơn xưa nhiều lắm”. Nhưng nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình “như sắp tan hoang ra cả” khiến chị không thể bấm bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó: “Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy… mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nối có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa…”
– Tất cả những người thân yêu của Hồn Trương Ba đều nhận ra cái nghịch cảnh trớ trêu. Sau tất cả những đối thoại ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói riêng, giọng nói riêng của mình đã khiến Hồn Trương Ba cảm thấy không thể chịu nổi. Nỗi cay đắng với chính bản thân mình cứ lớn dần… lớn dần, muốn đứt tung, muốn vọt trào.
– Nhà viết kịch đã để cho Hồn Trương Ba còn lại trơ trọi một mình với nỗi đau khổ, tuyệt vọng lên đến đỉnh điểm, một mình với những lời độc thoại đầy chua chát nhưng cũng đầy quyết liệt: “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ… Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình? “Chẳng còn cách nào khác”! Mày nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn cách nào khác? Có thật không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!”. Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát. Sự do dự bị đẩy lùi, bị xua tan. Sự tỉnh ngộ của hồn Trương Ba tuy muộn mằn nhưng thật có nhiều ý nghĩa. Con đường tự giải thoát, linh hồn đã nhìn thấy ánh sáng.
c. Bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba được kết thúc trong màn đối thoại với Đế Thích- Bi kịch “bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo”
– Cuộc trò chuyện giữa Hồn Trương Ba với Đế Thích trở thành nơi tác giả gửi gắm những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết. Hai lời thoại của Hồn trong cảnh này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn… Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!
– Người đọc, người xem có thể nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía qua hai lời thoại này. Thứ nhất, con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Thứ hai, sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa.
– Những lời thoại của Hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng vênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước lúc Đế Thích xuất hiện.
Quyết định dứt khoát xin tiên Đế Thích cho cu Tị được sống lại, cho mình được chết hẳn chứ không nhập hồn vào thân thể ai nữa của nhân vật Hồn Trương Ba là kết quả của một quá trình diễn biến hợp lí. Hơn nữa, quyết định này cần phải đưa ra kịp thời vì cu Tị vừa mới chết. Hồn Trương Ba thử hình dung cảnh hồn của mình lại nhập vào xác cu Tị để sống và thấy rõ “bao nhiêu sự rắc rối” vô lí lại tiếp tục xảy ra. Nhận thức tỉnh táo ấy cùng tình thương mẹ con cu Tị càng khiến Hồn Trương Ba đi đến quyết định dứt khoát. Qua quyết định này, chúng ta càng thấy Trương Ba là con người nhân hậu, sáng suốt, giàu lòng tự trọng. Đặc biệt, đó là con người ý thức được ý nghĩa của cuộc sống.
d. Ứng xử của Trương Ba trước tình trạng bi kịch đó :
– Trương Ba không chấp nhận buông xuôi: khi không thể thay đổi được xác hàng thịt để xác có thể hoà hợp với hồn, Trương Ba quyết định từ bỏ mối quan hệ với cái xác ấy :”chẳng lẽ nào ta lại chịu thua mày…”, ”không cần đến cái đời sống do mày mang lại”.
– Khẳng định mạnh mẽ nhu cầu được sống là mình : “không thể bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo”. Với Trương Ba, nhu cầu sống cuối cùng vẫn được đánh giá cao hơn nhu cầu tồn tại. Đặt ra vấn đề“sống như thế nào”là biểu hiện của ý thức cao về sự sống và cách sống để có một cuộc sống hạnh phúc và có ý nghĩa.
– Trong đoạn kết, Trương Ba được giải thoát khỏi bi kịch. Đoạn kết vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” gợi cho độc giả, khán giả nhiều bâng khuâng. Hồn Trương Ba không theo Đế Thích về trời để chơi cờ, mà lại hóa thành màu xanh của cây vườn, vị thơm ngon của trái na, vẫn quấn quýt với người thân, gần gũi nơi bậc cửa, trong ánh lửa, nơi cầu ao, trong cơi trầu, con dao… của vợ con thương yêu. Cho dù thân cát bụi lại trở về cát bụi, nhưng hồn Trương Ba cao khiết vẫn bất tử trong cõi đời. Cái kết đầy chất thơ ấy đã làm cho tư tưởng nhân văn tỏa sáng tác phẩm.
Nhận xét về nghệ thuật thể hiện bi kịch Hồn Trương Ba:
– Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách, thể hiện sự phát triển của tình huống kịch;
– Những đoạn đối thoại nội tâm của Hồn Trương Ba góp phần thể hiện rõ tính cách nhân vật và quan niệm về kẽ sống đúng đắn.
– Đặc biệt, đoạn trích rất thành công trong việc xây dựng đối thoại. Những đối thoại giàu kịch tính, đậm chất triết lí góp phần tạo nên chiều sâu cho vở kịch.
Ý nghĩa tư tưởng:
a. Tư tưởng của Lưu Quang Vũ :
– Được sống làm người là rất quý giá song được sống đúng là mình, sống trọn vẹn giá trị mà mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn.
– Con người phải luôn luôn biết đấu tranh với những nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.
b. Đánh giá ý nghĩa của tư tưởng ấy :
– Có ý nghĩa thực tế rất cao bởi đây không chỉ là vấn đề của nhân vật Trương Ba mà còn là vấn đề của con người hiện đại.
3. Kết bài :
Tóm lại, trong đoạn trích, tác giả Lưu Quang Vũ đã thể hiện một cách sâu sắc và sinh động bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba, bi kịch của một con người không được sống toàn vẹn mà mình phải sống “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”.
Qua bi kịch của Hồn Trương Ba, nhà viết kịch tài năng đã gửi tới độc giả nhiều thế hệ những triết lí nhân sinh sâu sắc về hạnh phúc, sự sống và cái chết, đồng thời phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ, góp phần đấu tranh chống lại sự tha hóa ở mỗi con người trong đời sống hiện nay.
Bài làm
Nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ nổi tiếng với những tác phẩm có nội dung giàu tính hiện thực, có tính đả kích sâu sắc và mang đậm giá trị nhân văn. Một trong những vở kịch nổi tiếng nhất của ông phải nhắc đến đó chính là tác phẩm Hồn Trương Ba da hàng thịt. Trong tác phẩm này những vấn đề mấu chốt và tình huống truyện đều tập trung xoay quanh nhân vật Trương Ba, một con người phải sống nhờ ở đậu trong thân xác của người khác.
Trước khi đột ngột qua đời, Trương Ba là một người đàn ông hiền lành đức độ trong gia đình, ông là một hình mẫu mực thước cho tất cả các thành viên noi theo. Chính vì vậy ông rất được vợ con yêu thương, con cháu kính trọng. Ông là người không những nho nhã, thanh lịch lại rất thông minh và hiểu biết, nước cờ ông đánh họa chăng chỉ có Đế Thích mới giải vây được. Có thể thấy được đây là con người tri thức, nền nã vừa đẹp ở tâm hồn nhân cách lại có những hành vi ứng xử văn minh.
Tuy nhiên, chỉ vì một sai sót của Nam Tào, Bắc Đẩu khi vội đi chơi mà khiến cho Trương Ba phải chết oan. Cái chết của Trương Ba đột ngột và vô lí đến nỗi khi vợ Trương Ba gặp Đế Thích để đòi lại sự công bằng Đế Thích cũng phải bối rối. Công bằng ấy được sửa chữa, vá víu bằng cách cho hồn Trương Ba nhập vào trong thân xác của hàng thịt. Thế nhưng đây cũng là lúc bắt đầu bi kịch của Trương Ba.
Trương Ba dần trở nên thô thiển hơn, có những hành động lỗ mãng, không còn giống với con người của ông trước kia. Ông trở nên tham ăn tục uống, ăn uống phàm phu tục tử, nói năng thì bỗ bã, thô thiển, hành vi thì lố bịch. Trương Ba đã làm những việc trước đây ông chưa từng làm: tát con trai, làm “gãy tiệt cái chồi non” của cây cam, giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm, đã “làm gãy cả nan, rách cả giấy, hỏng mất cả cái diều đẹp” của cu Tị. Không chỉ vậy, trong một lần vợ hàng thịt nằng nặc đòi chồng ở lại với mình, Trương Ba đã suýt chút nữa mà nghe theo.
Sự thay đổi của Trương Ba khiến cho chính gia đình ông cũng không chấp nhận được, vợ Trương Ba chấp nhận bỏ đi để ông về sống với vợ hàng thịt. Cái Gái cháu ông thì không nhận ông, cô con dâu ngoan hiền hiểu chuyện nhất cuối cùng cũng trách cứ cha mình. Trương Ba đau khổ lắm. Không phải ông không biết những sự thay đổi đã diễn ra với mình chỉ là ông không thể làm được gì để thay đổi thực tại. Hoàn cảnh của ông đích thực là lực bất tòng tâm. Dù linh hồn của ông muốn nhưng thân xác không chịu nghe theo thì ông cũng không thể điều khiển được. Huống hồ việc ban ngày ở trong thân xác hàng thịt lâu dần khiến cho ông bị tha hóa, trở nên thô thiển, cục mịch, ngày càng giống với con người hàng thịt.
Trương Ba vô cùng đau khổ và day dứt về sự thật này nên đã gặp Đế Thích và trình bày nỗi lòng của bản thân. Có thể thấy ông là một người rất có nhân cách, lòng tự trọng. Ông đã thẳng thừng nói với Đế Thích chỉ quan tâm cho người ta sống còn sống thế nào thì Đế Thích không quan tâm. Những lời phê phán của Trương Ba rất gay gắt nhưng cũng vô cùng chính xác về Đế Thích và cách làm của ông. Trương Ba cuối cùng đau khổ lựa chọn cái chết còn hơn chấp nhận hoán đổi linh hồn mình vào một thể xác mới. Đây là một sự lựa chọn cao cả và thể hiện đúng tính cách con người ông. Ông không thể chấp nhận sự giả dối, hoán đổi, không thể sống mà trong một đằng ngoài một nẻo. Dù cho ông có được đổi sang một thân xác nào đi nữa thì đó cũng là thân xác đi mượn và rồi ông sẽ lại gặp rất nhiều rắc rối khi không được là chính mình. Cách lựa chọn này đã đưa Trương Ba trở về là chính ông dù điều đó đồng nghĩa với việc ông phải vĩnh viễn rời xa vợ con của mình.
Bi kịch của Trương Ba đã nói lên một vấn đề đó là sống nương nhờ trong thân xác của người khác. Con người phải sống là chính mình, nhất quán, đồng điệu giữa tâm hồn và thể xác không thể có chuyện linh hồn người này nhưng lại sống trong thân xác của người khác.
Cách lựa chọn giải quyết vấn đề cũng cho thấy được nhân cách cao đẹp trong con người Trương Ba, ông đã lựa chọn cái chết để được làm chính mình còn hơn cố gắng níu giữ sự sống trong khi mình dần bị tha hóa, biến đổi. Cuối cùng thì Trương Ba vẫn trở về là người chồng yêu thương vợ con, là người cha mẫu mực, người ông đáng kính trọng của tất cả con cháu trong nhà.
Đề 5: Phân tích vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong bài thơ Sóng
Dàn ý
1. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm: Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ nữ tiêu biểu nhất thời chống Mĩ cứu nước. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng nói đầy cảm xúc, có sắc thái rất riêng, đậm chất nữ tính của một tâm hồn phụ nữ rất thông minh, sắc sảo, giàu yêu thương. “Sóng” được sáng tác năm 1967, là bài thơ đặc sắc viết về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh.
- Giới thiệu về luận đề: Bài thơ “Sóng” là tiếng lòng chân thành, bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu.
2. Thân bài
- Giới thiệu hình tượng sóng: Là một sáng tạo độc đáo của Xuân Quỳnh. “Sóng” là sự ẩn thân, hóa thân của nhân vật trữ tình “em”. Qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh diễn tả cụ thể, sinh động những trạng thái, cung bậc tình cảm, tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu: nhân hậu, khao khát yêu thương và luôn hướng tới một tình yêu cao thượng, lớn lao.
- Cảm nhận về vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu:
Thể hiện tiếng nói của trái tim tuổi trẻ mang khát vọng tình yêu muôn thuở (Ôi con sóng ngày xưa/ Và ngày sau vẫn thế/ Nỗi khát vọng tình yêu/ Bồi hồi trong ngực trẻ).
Khao khát khám phá sự bí ẩn của quy luật tình yêu nhưng không tìm thấy câu trả lời (Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau).
Bộc lộ một tình yêu sôi nổi, đắm say, nồng nàn, mãnh liệt, một nỗi nhớ cồn cào, da diết, chiếm lĩnh cả thời gian và không gian (Con sóng dưới lòng sâu/Con sóng trên mặt nước… Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức…).
Luôn hướng tới một tình yêu thủy chung, son sắt (Nơi nào em cũng nghĩ/ Hướng về anh – một phương).
Ước vọng có một tình yêu vĩnh hằng, bất tử để làm đẹp cho cuộc đời (Làm sao được tan ra/ Thành trăm con sóng nhỏ/ Giữa biển lớn tình yêu/ Để ngàn năm còn vỗ).
- Đặc sắc nghệ thuật: ẩn dụ (mượn hình tượng sóng để thể hiện tình yêu một cách sinh động, gợi cảm); thể thơ năm chữ với nhịp điệu linh hoạt, nhịp nhàng gợi âm vang của sóng; ngôn từ giản dị, trong sáng, hình ảnh thơ giàu sức gợi.
- Bàn luận chung: Bài thơ đã thể hiện nổi bật vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu: chân thành, say đắm, nồng nàn, mãnh liệt, thủy chung, trong sáng, cao thượng. Nó vừa mang nét đẹp tình yêu của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, vừa có nét táo bạo, chủ động đến với tình yêu của người phụ nữ Việt Nam hiện đại.
3. Kết bài
- Đánh giá chung: “Sóng” là bài thơ tiêu biểu của Xuân Quỳnh và của thơ ca Việt Nam hiện đại viết về đề tài tình yêu.
- Khẳng định: Giá trị nhân văn của bài thơ chính là sự khắc họa vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu.
Bài làm
Xuân Quỳnh được biết đến là một trong những số ít nhà thơ thời kỳ kháng chiến chống Mĩ viết về đề tài tình yêu. Thơ Xuân Quỳnh đặc trưng bởi tâm hồn của người phụ nữ lúc tươi tắn lúc đằm thắm và khao khát hạnh phúc bình dị đời thường. Tiêu biểu nhất trong đời thơ Xuân Quỳnh là bài thơ “Sóng”. “Sóng” được Xuân Quỳnh sáng tác trong chuyến đi thực tế đến vùng biển Diêm Điền năm 1967, được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”, bài thơ viết về tình yêu rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh. “Sóng” để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc bởi vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu. Và từ đó, ta có thể cảm nhận được tình yêu của giới trẻ hiện nay cũng rất đẹp và trong sáng.
Mở đầu bài thơ, Xuân Quỳnh đã diễn tả trạng thái của sóng và đồng hành theo đó là tâm trạng người phụ nữ đang yêu với nghệ thuật ẩn dụ đầy độc đáo:
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Với nghệ thuật đối lập: “dữ dội – dịu êm”, “ồn ào – lặng lẽ”, Xuân Quỳnh đã thể hiện một cách chân thực tâm trạng người phụ nữ đối với tình yêu, lúc thì dịu dàng, đằm thắm, khi thì khao khát, mãnh liệt. Điều đó cho thấy trong tận sâu thẳm tâm hồn, người phụ nữ trong tình yêu luôn có những mâu thuẫn, thể hiện nội tâm phong phú và là điều thường tình đối với người con gái đang yêu. Vậy mới thấy họ đáng yêu như thế nào.
Xuân Quỳnh rất tài tình khi sử dụng nghệ thuật nhân hoá: “Sông không hiểu nổi mình/Sóng tìm ra tận bể”. Nếu sông không hiểu được bản thân mình như thế nào thì sóng sẽ không do dự, sẵn sàng từ bỏ sông để tìm ra bể lớn, đến nơi rộng mênh mông, cũng giống như người phụ nữ trong tình yêu, họ sẵn sàng bỏ tất cả những điều nhỏ nhen, ích kỷ, tìm đến với tình yêu lớn lao. Đây là một quan niệm độc đáo, mới mẻ của Xuân Quỳnh về tình yêu.
Khổ thơ thứ hai được Xuân Quỳnh viết nên với niềm bồi hồi đầy sâu lắng:
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
Từ “Ôi” cảm thán được thốt lên như đi sâu vào lòng người đọc. Một từ “Ôi” làm trái tim bao người xốn xang, rộn ràng vì tình yêu, nhất là tuổi trẻ. Lại thêm các từ “ngày xưa”, “ngày sau” và “vẫn thế” như đinh ninh rằng tình yêu vẫn luôn và sẽ tồn tại mãi mãi cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Câu thơ “Nỗi khát vọng tình yêu” thể hiện khao khát mãnh liệt về tình yêu làm bao người trẻ phải “bồi hồi” nơi lòng ngực. Xuân Quỳnh rất thấu hiểu điều ấy, nó như chắc chắn thêm nữa tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu đẹp biết bao.
Tiếp đến nhà thơ thắc mắc nghĩ đến nguồn gốc đầy bí ẩn của tình yêu mà không ai có thể lý giải một cách tường tận:
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên
Đứng trước sóng bể bao la, rộn lớn mênh mông, em nghĩ đến anh đầu tiên, rồi nghĩ đến em, sau cùng em nghĩ về biển lớn. Chỉ như vậy thôi cũng đủ thấy sự trân trọng của em đối với anh, đối với tình yêu giữa anh và em như thế nào. Đọc những câu thơ ấy, ta không thể phủ nhận vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu, thật trong sáng biết bao. Câu hỏi tu từ cuối khổ “Từ nơi nào sóng lên?” như một nỗi niềm bâng khuâng về nguồn gốc tình yêu.
Và không chờ đợi lâu hơn nữa, Xuân Quỳnh đã tự mình lý giải về nguồn gốc của tình yêu:
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau?
Xuân Quỳnh đã tìm được nguồn gốc của sóng “Sóng bắt đầu từ gió”, nhưng lại tiếp tục boăn khoăn khi không thể lý giải được gió bắt đầu từ đâu, em đã “chịu thua” mà thốt nên câu “Em cũng không biết nữa”. Lại tiếp câu thơ “Khi nào ta yêu nhau?” là một câu hỏi không có câu trả lời. Tình yêu thật dịu kỳ biết bao, nó đến mà không biết lúc nào nó đến. Vâng! Có yêu tha thiết thì mới nghĩ nhiều về tình yêu, về nguồn gốc của tình yêu đến thế. Càng tôn nên vẻ đẹp nơi tâm hồn của người con gái khi yêu.
Có thể nói khổ thơ thứ năm rất đặc sắc, đó chính là nỗi nhớ nhung da diết em dành cho anh:
Con sóng trên mặt nước
Con sóng dưới lòng sâu
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Nghệ thuật nhân hoá vô cùng độc đáo, Xuân Quỳnh đã tinh tế khi khắc họa nỗi nhớ của sóng đối với bờ “Con sóng dưới lòng sâu/Con sóng trên mặt nước/Ôi con sóng nhớ bờ/Ngày đêm không ngủ được”, “dưới lòng sâu” rồi lại “trên mặt nước”. Từ nỗi nhớ không thể nhìn thấy cho đến nỗi nhớ thấy rõ mồn một, Xuân Quỳnh đã rất thành công về việc thể hiện nỗi nhớ của sóng, nỗi nhớ ấy rất mãnh liệt và lâu dài tồn tại cả ngày lẫn đêm. Từ nỗi nhớ của sóng đối với bờ, Xuân Quỳnh liên hệ đến nỗi nhớ em dành cho anh, nỗi nhớ ấy cũng không kém phần mãnh liệt so với nỗi nhớ của sóng. Nỗi nhớ của em tồn tại trong ý thức, xen lẫn cả vào tiềm thức. Có ai đó đã nói rằng nhớ chính là nhắc nhở mình đang yêu. Phải có yêu thì mới có nhớ, có yêu sâu đậm thì mới nhớ mãnh liệt. Một lần nữa, ta không thể phủ nhận nét đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu.
Truyền thống làm nên nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam chính là lòng thủy chung. Và Xuân Quỳnh đã khẳng định lòng thủy chung son sắt và sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn để đến với tình yêu qua khổ thơ thứ sáu và bảy:
Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫn ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương
Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dẫu muôn vời cách trở
Nghệ thuật điệp cấu trúc rất độc đáo: “Dẫu… Dẫu” đã giúp Xuân Quỳnh thể hiện lòng thủy chung của em đối với anh. Hai câu thơ đầu khổ sáu vô cùng đặc biệt “Dẫu xuôi về phương Bắc/Dẫu ngược về phương Nam”, đáng lẽ phải là “xuôi Nam, ngược Bắc”, nhưng điều đó có gì quan trọng? Khi yêu, dù cho mọi trật tự đều đảo lộn thì em vẫn một mực thủy chung, dù cho em ở bất kỳ nơi nào thì em vẫn luôn hướng về một phương, đó là phương anh. Chính tình yêu mặn nồng tha thiết mà cả trăm ngàn con sóng dù ở xa rất xa bờ nhưng chúng vượt qua tất cả khoảng cách địa lý để tìm đến bờ, đó là lẽ tự nhiên. Ẩn ý đằng sau ấy chính là nói lên em cũng sẽ như sóng kia, dù cho có bao chông gai, trở ngại em sẽ vượt qua tất cả để đến với anh, với tình yêu của đôi ta. Như ca dao có câu: “Thương nhau mấy núi cũng trèo/Mấy sông cũng lội, vạn đèo cũng qua”
Người phụ nữ vốn rất nhạy cảm, trong tình yêu lại càng nhạy cảm hơn. Nếu ở hai khổ thơ trước, em rất lạc quan, tự tin vào tình yêu thì ở khổ thơ tiếp theo, em lại lo lăng, trăn trở về cuộc đời:
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Xuân Quỳnh ý thức rất rõ về cái hữu hạn của cuộc sống, dẫn cuộc đới có dài đến đâu thì thời gian vẫn trôi đi mà không chờ đợi ai bao giờ, cũng giống như biển dẫu rộng lớn, vô tận thì mây vẫn bay về nơi xa.
Chính vì ý thức được sự hữu hạn của cuộc đời nên Xuân Quỳnh khao khát được như sóng, tan vỡ rồi lại “tái sinh”, tồn tại mãi mãi giữa đại dương mênh mông, điều đó thật giống với tình yêu của em, sống mãi với tình yêu rộng lớn của cộng đồng:
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.
Xuân Quỳnh đã rất thành công trong việc sử dụng thể thơ năm chữ, dễ đi vào lòng người, lấy hình tượng sóng để diễn tả tâm trạng người phụ nữ, bên cạnh đó còn có các nghệ thuật nhân hoá, đối lập, ẩn dụ… thể hiện vẻ đẹp tinh tế của người phụ nữ trong tình yêu, một tâm hồn nhạy cảm, sâu lắng mà cũng mãnh liệt đầy ý nhị.
“Sóng” là bài thơ rất hay về tình yêu của Xuân Quỳnh, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn Xuân Quỳnh cũng như vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu.
Đề 6: Phân tích thứ vàng mười trong Người lái đò sông Đà
Dàn ý
1. Mở bài
Nguyễn Tuân là một nhà văn suốt đời đi săn tìm cái đẹp. Trước cách mạng, ông quan niệm cái đẹp chỉ có trong quá khứ Vang bóng một thời và tài hoa nghệ sĩ chỉ có ở những con người xuất chúng của thời trước còn vương sót lại. Còn sau cách mạng, ông không đổi lập quá khứ với hiện tại, đặc biệt là phẩm chất tải hoa có thể tìm thấy ở nhân dân đại chúng. Tùy bút Sông Đà là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi của Tổ quốc, nơi ông đã khám phá ra chất vàng mười của thiên nhiên cùng “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ờ tâm hồn của những người lao động. Và hình ảnh ông lái đò trong tùy bút Người lái đò sông Đà lả một minh chứng sống động cho sự thay đổi quan niệm nghệ thuật ấy.
2. Thân bài
a) Khái quát phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân:
- Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tài hoa, uyên bác bậc nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Cuộc đời sáng tác của ông là đi sân tìm cái đẹp. Cho nên, ưng con mắt của tác giả, mọi đối tượng thiên nhiên và con người đều tồn tại trên phương diện thẩm mỹ, lấy cái đẹp làm tiêu chuẩn.
- Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân chia ra làm hai thời kì lớn: trước và sau cách mạng.
- Những năm trước cách mạng, Nguyễn Tuân còn đam mê chủ nghĩa lãng mạn, ông chối từ hiện tại, tìm về với vẻ đẹp cội nguồn của vần học sùng cổ, hoàn toàn xa lạ với cuộc cách mạng của chúng ta. Nhưng từ sau năm 1945, một lớp văn nghệ sĩ như Nguyễn Tuân cố sự giác ngộ tư tưởng, họ tìm được đến với Ánh sáng, phố xá của cách mạng. Nguyễn Tuân cũng hồ hởi với công việc này nhưng ông không lấy văn chương làm công cụ tuyên truyền cách mạng mà ông thể hiện tinh thần yêu nước ở phương diện khác. Đó là sự đam mê, khám phá vẻ đẹp của non sông, đất nước. Trong đó có dòng sông Đà, đảo Cô Tô, đảo Bạch Long Vĩ,...
+ Với đòi hỏi của thời cuộc, Nguyễn Tuân cũng lao mình vào thực tại để hòa nhập vào công cuộc xây dựng kinh tế sau chiến tranh, để hàn gắn vết thương mà kháng chiến chống Pháp để lại. Nguyễn Tuân cùng các đồng nghiệp của mình không quản khó khăn gian khổ băng đèo, lội suối đến với miền Tây Bắc để tìm cho ra, cho thật nhiều: “Cái thứ vàng của màu sắc sông núi Tây Bắc và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí của những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với công việc, xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa, tươi vui và bền vững’*. (Nguyễn Tuân). Vì vậy, cảm hứng chủ đạo trong tùy bút này là ca ngợi Tổ quốc, ca ngợi nhân dân, những con người thầm lặng, vô danh mà vĩ đại.
- “Thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở tâm hồn của những người lao động: để chỉ vẻ đẹp tâm hồn của những con người lao động và chiến đấu trên vùng sông núi hùng vĩ và thơ mộng. Họ là những con người bình dị, đời thường nhưng có khát khao chinh phục và làm chủ thiên nhiên, gắn bó với thiên nhiên, góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng kinh tê đất nước, vẻ đẹp “qua thử lửa” chính là những khó khăn, gian khổ mà họ đã trải qua trong công cuộc chinh phục thiên nhiên, vẻ đẹp đó sáng ngời như một thứ “vàng mười” của thiên nhiên Tây Bắc.
b) Khái quát về tác phẩm:
- “Người lái đò Sông Đà” được in trong tập kí “Sông Đà”, đây là một tác phẩm tùy bút có giá trị rất sâu sắc cả về văn học và xã hội. Tác phẩm này là kết quả của một cuộc hành trình lớn mà Nguyễn Tuân tìm đến Tây Bắc để tìm kiếm “thứ vàng mười của thiên nhiên và thứ vàng mười của con người lao động đã qua thử lửa”. Tác phẩm này còn đặt nền móng cho nhiều dự án mang tính lịch sử - chính trị-xã hội sâu sắc nhưng hơn hết được mệnh danh là một tác phẩm văn chương gần như đạt đến sự hoàn mỹ.
- Tập kí “Sông Đà” ra đời năm 1960, trong công cuộc xây dựng vùng Tây Bắc sau chiến tranh. Mỗi nhà văn, nhà thơ lại mang đến cảm hứng riêng của mình cho đề tài này. Chế Lan Viên hồ hởi với chuyến tàu lên Tây Bắc, còn Nguyên Khải lại thấy sự đổi thay trong con người. Cũng trong đề tài đỏ, Nguyễn Tuân khám phá và phát hiện vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Tây Bắc như bàn thể của núi rừng. Nó chính là thủ vàng mười mà nhà văn đang tìm kiếm.
c) Hình tượng người lái đò sông Đà:
- Hình ảnh người lái đò trong tác phẩm không được miêu tả chi tiết về hình ảnh và cá tính mà phần lớn được gợi lên thông qua vẻ đẹp của con người lao động trí tuệ và tài hoa.
- Trong tác phẩm, nhà văn xây dựng hai nhân vật đó là con sông Đà và người lái đò trên dòng sông ấy. Đỏ là một dụng ý nghệ thuật cao tay của bậc tu từ tài hoa. Bức tranh thiên nhiên dữ dội, con quái vật hiểm ác, kẻ thù số 1 kia chỉ là phông nền để tác giả tô vẽ, ngợi ca, tôn vinh sức mạnh kì vĩ của con người. Vì thế, hình tượng người lái đò sông Đà được nhà vãn xây dựng như một dũng tướng tài ba, là một nghệ sĩ lão luyện trong nghề chèo đò vượt thác.
- Vốn dĩ xuất thân từ núi rừng nên ông lái gắn bó chặt chẽ với cuộc sống nơi đây. Ông sinh ra trên bờ sông Đà, dòng sông thác lũ đó là nguồn nuôi sống chữ ông ngay từ khi còn đỏ chỏm. Cho đến cuộc sống sau này, cuộc đời Ông vẫn là những hành trình leo thác, vượt sông, hình như con người và thiên nhiên gắn bó mật thiết cho nên khi đã nghỉ đò mà ông vẫn nhớ về thác lũ và trận địa đá trên sông.
- Trên dòng sông Đà, người lái đò xuôi ngược cả trăm lần. Dòng sông với ông “như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Ông hiểu được quy luật của các dòng nước, đóng đinh vào trí nhớ của mình từng con thác, xoáy nước, luồng xanh luồng dữ, cửa sinh, cửa tử; thông minh, gan dạ, hoạt bát, tự tin như một dũng tướng trong trận đồ bát quái, đua người và hàng vượt qua 73 con thác đến đích an toàn. Con người ấy được ví như “thứ vàng mười” nhưng lại là một tay nhà đò nghèo khổ, tay lêu nghêu như cái sào, chân lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy cái cuống lái tưởng tượng, giọng ồn ào như tiếng thác nước mặt ghềnh sóng, nhỡn giới vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù. Thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng chất mun, khuôn mặt khắc khổ in hằn dấu vết của công việc đầy gian nan, nguy hiểm. Ông là một nhân vật không tên, vì ông là đại diện cho bao nhiêu con người trên đất nước Việt Nam ngày đêm âm thầm, cần mẫn trong lao động, không ngừng phải đối diện với thiên tai địch họa để giành lấy sự sống và bảo vệ quê hương đất nước. Nhờ đó mà hình tượng trở nên lớn lao, kì vĩ.
- Người lái đò là người rất mực trí dũng và bàn lĩnh .Để làm nổi bật phẩm chất này, Nguyễn Tuân đã có dụng ý nghệ thuật sâu xa là để cho người lái đò xuất hiện trên một hoàn cảnh đầy thử thách, khốc liệt. Nguyễn Tuân khẳng định “Ông muôn ghi cái đoạn này cái hình ảnh chiến đấu gian lao của người lái đỏ trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thủy chiến ở mặt trận sông Đà”. Nhà văn đã mô tả một cách chân thật vừa trân trọng, vừa yêu thương, vừa cảm phục nhân vật ông lái đò vô cùng hiên ngang, trí dũng trong cuộc chiến đấu với những con sóng, con thác đầy hung dữ, nguy hiểm. Cuộc vượt thác, thủy chiến dữ dội có nhiều hồi, nhiều đợt, mỗi đợt lại có những thử thách ác liệt khác nhau, dòng sông bày ra những thạch trận hiểm hóc khác nhau: “Đá ờ đây từ ngàn năm vẫn mai phục trong lòng sông...để vồ lấy con thuyền. Đá bày ra thạch trận trên sông với những boongke chìm và pháo đài nổi, phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thủy thủ ngay ở chân thác”. Kho từ vựng giàu có và vốn kiến thức văn hóa khoa học phong phú, uyên bác như quân sự, võ thuật, thể dục thể thao, điện ảnh...của Nguyễn Tuân được dịp huy động để miêu tả cuộc thủy chiến ác liệt giữa người lái đò và sóng thác sông Đà: “Sóng nước thúc gối vào bụng và hông thuyền... có lúc chúng đội cà thuyền lên... sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất”. Có lúc tưởng như ông lái đò sẽ bị con thủy quái sông Đà vô cùng hung bạo ấy ngấu nghiến nuốt chửng. Trước sức mạnh của kẻ thù số một của con người, ông lái đò vẫn không hề nao núng, trái lại vẫn bình tĩnh chủ động chiến đấu một cách dũng cảm đầy mưu trí như một vị chỉ huy tài trí tuyệt vời, điều khiển con thuyên lần lượt vượt qua các thác ghềnh như “Phá cái trận đồ bát quái của dòng sông hung bạo”... “Dòng nước hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông Đà”. Những người lái đò vẫn "Cười lên thác sông Đà.. .đến cùng như cưỡi hổ”.
- Người lái đò tài hoa nghệ sĩ: Ông lái đò còn là người rất mực tài hoa, có phong thái ung dung, pha chút nghệ sĩ. Sóng, thác sông Đà rất khắc nghiệt, chỉ cần người lái đò một phút thiếu chính xác, khỉnh suất, nhỡ tay, hoa mắt là có thể phải trả giá bằng cả chính sinh mạng của mình. Nhung sóng, thác sông Đà đù cớ hung dữ đến đâu, cũng bị khuất phục trước người lái đò trí dũng đó. Bởi người lái đò là một nghệ sĩ có kĩ nghệ chở đò kỳ diệu. Nghệ thuật ấy được biểu hiện rõ nhất ở khả năng nắm chắc quy luật tất yếu của sông Đà, nhờ thế mà người lái đò ớ tư thế chủ động, tự do, người chiến thắng. Ông lái đò đã nắm chắc mọi quy luật của dòng sông. Lúc thì “ông cưỡi thác nắm lấy bờm sóng mà phóng nhanh qua cửa tử” lúc lại “Ghì cương đè sấn lên mà chặt đôi con thác để mở đường tiến”. Bằng những động tác thuần nhuyễn trong nghề nghiệp của mình, ông lái đò đã lái con thuyền “như một mũi tên tre xuyên qua hơi nước”, xuyên qua biết bao ghềnh thác hiểm nghèo của dòng sông hung bạo này. Nguyễn Tuân gọi người lái đò của mình có “tay lái ra hoa” là như vậy. Người lái đò trở thành một người nghệ sĩ, một người anh hùng chiến thắng thiên nhiên.
- Ông lái đò còn hiện lên với vẻ đẹp của người lao động bình dị: Khác với cảm xúc của tác giả, thì việc vượt sông của ông lão chi là công việc lao động bình thường, ông đã quên ngay khi hành trình kết thúc. Con sông Đà hung dữ như vậy nhưng ông chỉ coi nó như chiếc lá thu. Ông đến với nó như người lắm chứng nhiều tật nhưng đằm thắm như một cố nhân. Ông hiểu nó và lắng nghe âm vang của nó, thủy chung với nó. Quà mỗi lần chinh phục, mọi nguy hiểm lại tan biến: “Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. Hộ lại đốt lửa nướng cơm lam, bàn chuyện về cá anh vũ, cá dầm xanh, như không hề có chuyện gì xảy ra, cho dù ngày nào họ cũng phải vật lộn, đối mặt. Đó là vẻ đẹp bình dị của những con người lao động trên miền thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ.
Tiểu kết: Với cá tính sáng tạo độc đáo, Nguyễn Tuân luôn có những phát hiện mới lạ nơi con người và sự vật. Nhà văn mang đến cho người đọc một cảm nhận thú vị về vẻ đẹp của con người lao động, chủ nghĩa anh hùng đâu chỉ có ở những nơi chiến trường, nó hiện hình ngay trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân ta phải lao động, vật lộn với miếng cơm, manh áo và cho những điều lớn lao hơn thế. Trí dũng, tài hoa không phải tìm ở đâu xa mà nỏ hiện hữu ngay trong những con người bình thường, giản dị nhưng luôn ánh lên “chất vàng mười” vô cùng quý giá. Cuộc đời ông lái đò vô danh nơi ngọn thác hoang vu là một khúc vĩ thanh tuyệt vời của núi rừng Tây Bắc, là ngọn nguồn sáng tạo nghệ thuật chân chính của người nghệ sĩ. Vì lẽ đó, tác phẩm đã trở thành một tuyệt phẩm vinh danh sự tìm tòi và sáng tạo không ngừng trong cuộc đời lao động nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Ông xứng đáng là “ông vua” của thể loại tùy bút - một bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại
d) Những nét đặc sắc trong nghệ thuật kí của Nguyễn Tuân
- Thiên tùy bút mang đậm cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân. Độc đáo, tài hoa, uyên bác ở cách tiếp cận và khai thác đối tượng từ nhiều phương diện thẩm mĩ, văn hóa: dòng sông được miêu tả như một công trình mĩ thuật tuyệt vời của Tạo hóa; người lái đò được khắc họa với tư chất trí dũng, tài hoa, nghệ sĩ.
- Vận dụng ngôn ngữ điêu luyện của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau như hội họa, âm nhạc, điện ảnh, điêu khắc,., .huy động kiến thức của nhiều lĩnh vực: địa lý, lịch sử, võ thuật, thể thao, quân sự để xây dựng hình tượng.
- Sử dụng hình ảnh mới lạ, độc đáo, hấp dẫn.
- Sử dụng các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, liên tưởng, tưởng tượng làm cho đối tượng miêu tả trở nên sống động và hấp dẫn hơn.
- Tất cả những kết tinh nghệ thuật như trẽn đều nhằm làm nổi bật vẻ đẹp của dòng sông Đà hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất đỗi thơ mộng, trữ tình; vẻ đẹp của người lao động trên sông nước rất đỗi bình dị, kỳ vĩ mà lớn lao.
3. Kết bài
Qua hình tượng người lái đò, nhà văn tỏ thái độ yêu mến, tự hào và khâm phục trước những con người lao động bình dị vùng Tây Bắc, những con người mà nhà văn gọi là “chất vàng mười" quý giá của Tổ quốc. Sáng tạo nên hình tượng này, Nguyên Tuân đã mang đến một thông điệp: chủ nghĩa anh hùng đâu phải tìm kiếm đâu xa, nó có trong cuộc sống tìm miếng cơm manh áo của nhân dân lao động và những người bình dị có trí dũng tài ba, họ có thể tạo hình tạo mẫu cho nghệ thuật văn chương.
Bài làm
Trong nền văn học hiện đại Việt Nam, nếu hỏi ai là người được hết lời ca ngợi có biệt tài “điều khiển chữ nghĩa”? Ai là “người thợ kim hoàn rèn chữ”, là “bậc thầy của ngôn từ”? Ai có một tính cách “trộn không lẫn”? Ai lại có vai trò như một “hòn đá tảng” trong “cái nền còn mới mẻ của văn xuôi tiếng Việt ta”? Thì câu trả lời chắc chắn không thể là nào khác ngoài Nguyễn Tuân. Ông có nhiều tác phẩm, tập truyện, tập kí nổi tiếng và một trong số đó có “Người lái đò sông Đà”. Trong tác phẩm, nhà văn Nguyễn Tuân đã khắc họa chất vàng của thiên nhiên cùng “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở tâm hồn của những người lao động. Đặc biệt gây ấn tượng trong tác phẩm là hình tượng người lái đò, đại diện cho “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ấy.
“Người lái đò sông Đà” là bài tùy bút được in trong tập “Sông Đà” (1960) của Nguyễn Tuân. “Sông Đà” là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi (1958) không chỉ để thoả mãn cái thú tìm đến những miền đất lạ cho thỏa niềm khát khao “xê dịch", mà chủ yếu để tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên cùng “thứ vàng mười đã qua thử lửa" ở tâm hồn của những con người lao động và chiến đấu trên miền núi sông hùng vĩ và thơ mộng đó. Vì thế, “Sông Đà” nói chung và bài tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” nói riêng cho ta nhận ra diện mạo của một nhà văn Nguyễn Tuân mới mẻ, khát khao được hòa nhịp với đất nước và cuộc đời này. Không giống với Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám, con người chỉ muốn xê dịch cho khuây cảm giác "thiếu quê hương”. “Sông Đà” nói chung và “Người lái đò sông Đà” nói riêng còn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân: uyên bác, tài hoa, không quản nhọc nhằn để cố gắng khai thác kho cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn bề, nhằm tìm cho ra những chữ nghĩa xác đáng nhất, có khả năng làm lay động người đọc nhiều nhất.
Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một nhà văn ưa cảm giác mạnh. Với người nghệ sĩ này, đã là đẹp phải đẹp tuyệt mĩ, đã là dữ dội phải dữ dội đến khác thường, đến tột đỉnh. Ông không thích những gì tầm thường. Người lái đò đáp ứng được yêu cầu thưởng thức nghệ thuật đặc biệt đó của Nguyễn Tuân vì người lái đò vừa là một người nghệ sĩ tài hoa, một người đã đạt tới trình độ điêu luyện trong nghề nghiệp và có đời sống tâm hồn đậm chất nghệ sĩ. Song ông lái đò cũng đơn thuần chỉ là một người lao động bình thường, thầm lặng và vô danh, không tên tuổi như biết bao con người khác. Chất vàng mười đã qua thử lửa là ở chỗ ấy, bởi con người lao động bình thường nhờ tôi rèn đã thành thứ tài sản quý giá của đất nước.
Ông lái đò hiện lên là một ông lão đã 70 tuổi với ngoại hình thật đặc biệt: Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, gò lại như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù. Nguyễn Tuân chỉ bằng vài nét cũng cũng đủ để để chạm khắc vào tiềm thức của bạn đọc về một hình ảnh người lái đò gần gũi, một con người sinh ra và lao động trên sông nước, một con người suốt đời chiến đấu với thác, đá, sóng, nước của sông Đà để tồn tồn tại và xây dựng quê hương Tây Bắc. Giữa khung cảnh thiên nhiên sông Đà hùng vĩ, đầy nguy hiểm và hung bạo ấy, Nguyễn Tuân đã tô đậm vẻ đẹp tài hoa trí dũng của ông lái đò qua cuộc vượt thác đầy nguy hiểm, một trận chiến dữ dội giữa con người và thiên nhiên. Người lái đò nhỏ bé cùng chiếc thuyền mỏng manh đối chọi với thiên nhiên sông nước hung bạo, một cuộc chiến không cân sức nhưng con người trí dũng ngoan cường, tỉnh táo, khôn ngoan, khéo léo đã có thể đưa con thuyền an toàn vượt qua những trùng vi thạch trận trên dòng sông một cách đầy ngoạn mục.
Ở vòng vây thứ nhất, con sông Đà bày ra thạch trận với bốn cửa tử và một cửa sinh. Ở đây nước phối hợp với đá reo hò làm thanh viện; những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt; một hòn ấy trông như đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Khi “thạch trận dàn bày vừa xong thì cũng là lúc con thuyền tới”. Người lái đò không hề run sợ, tiến đề với trùng vi thạch trận thứ nhất với tâm thế sẵn sàng nhất. Con sông Đà khôn ngoan, nó không đánh trực diện với người lái đò mà đánh bằng nghệ thuật tâm lý chiến. Trước đó, nó dùng âm thanh của thác để khiêu khích “giọng gằn mà chế nhạo”, còn giờ đây nó lại nhờ đến “nước thác làm thanh viện cho đá”. Sông Đà quả thực hiểm ác, nó xông tới “ùa vào mà bẻ gãy cán chèo”, “liều mạng vào sát nách mà đá trái”, “thúc gối vào bụng và hông thuyền”, có lúc lại “đội cả thuyền lên”. Sông Đà khôn ngoan và hiểm ác là thế, nhưng ông lái đò không hề hoảng sợ “ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất tung lên khỏi sóng”. Lúc này con sông Đà lại chuyển thế bám lấy thuyền và sử dụng đòn vật “túm lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật ngửa thuyền ra”. Không để cho ông đò có cơ hội xoay xở, sông Đà lại chuyển thế đánh miếng đòn hiểm độc nhất “cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Khi sóng thác đánh miếng đòn độc hiểm nhất, ông đò mặt “méo bệch” đi.
Khuôn mặt ấy của ông lái đò hiện ra không chỉ là gương mặt biến dạng, trắng bệch vì đau đớn mà còn nhợt nhạt vì phải dầm lâu trong nước lạnh. Sự đau đớn của ông đò còn được gián tiếp miêu tả trong một cảm nhận của thị giác và xúc giác “mặt sông trong tích tắc lòa sáng như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng”. Đó là một trận chiến không cân sức, con sông Đà hùng vĩ và hung bạo vô cùng, người lái đò hiện lên nhỏ bé, với chiếc mái chèo nhưng với sức mạnh thật lớn lao. Qua cách miêu tả tiếng hô chỉ huy ngắn gọn, tỉnh táo của người cầm lái, Nguyễn Tuân đã không giấu được lòng ngưỡng mộ và cảm phục trước bản lĩnh kiên cường, sự dũng mãnh, bình thản của người lái đò.
Tới vòng vây thứ hai của thạch trận, ông đò không chỉ dũng mãnh, kiên cường mà còn thể hiện sự thông minh của một người lái đò dày dặn kinh nghiệm – người nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, người đã “thuộc quy luật” của dòng sông, thác đá. Đến với trùng vi này, con sông Đà tăng thêm nhiều cửa tử hơn, cửa sinh lại bố trí lệch qua bờ phía hữu ngạn. Ở trận đánh này ông đò đánh phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh. Ông đò “nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông ghì cương lái”, ông “phóng nhanh”, “lái miết”, tốc độ nhanh vô cùng. Nhưng sông Đà nào đâu phải dạng vừa, chúng xô ra, níu chiếc thuyền vào tập đoàn cửa tử. Ông đò đã cảnh giác sẵn “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo”, “đứa thì đè sấn lên chặt đôi ra để mở đường tiến lên”. Nguyễn Tuân quả thực là bậc thầy của ngôn ngữ, ông huy động hàng loạt các động từ, hò reo theo từng nhịp lái chèo của ông lão lái đò: nắm, ghì, phóng, lái, rảo, đè,... Ông lái đò như một dũng tướng tài ba điều khiển thuần phục con ngựa bất kham của sóng thác sông Đà. Chính bằng sự mưu trí và tài năng của mình, ông lão đã vượt qua hết các cửa tử, làm cho bọn đá thua cuộc phải bày bộ mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất vọng”. Thiên nhiên, thác đá sông Đà hung bạo hiểm độc là thế cũng không thể chiến thắng được sức mạnh phi thường của ông lái đò - một tay lái ra hoa, trí tuệ, một tướng lĩnh thực thụ đã chiến thắng cả thần sông, thần đá.
Có lẽ tất cả sự hiểm ác nhất của con sông Đà tập trung hết cả ở trùng vi cuối cùng. Không những ít cửa hơn mà bên trái bên phải đều là luồng chết cả, luồng sống thì lại nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liên xô ra cảnh níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Con sông ngày càng mưu mẹo vào hiểm ác, muốn dồn con người đến chỗ chết. Sự hiểm ác của thác đá đã được nhà văn miêu tả trong hình ảnh ẩn dụ tài hoa về cổng đá cánh mở cánh khép – đó là cả một mặt trận đá trùng điệp trong đó bức tường phòng ngự vững chắc của lũ đá hậu vệ kết hợp với những mũi tấn công ào ạt, tới tấp không ngừng nghỉ của sóng dữ. Nhiệm vụ của ông đò là phải phóng thẳng thuyền, chọc thủng một luồng sinh duy nhất ở ngay giữa cửa bọn đá hậu vệ trấn giữ, trong khoảnh khắc cánh “cổng đá” mở giữa những đợt sóng thác dữ dội. Có lẽ ngay lúc này đây, tay lái chèo của ông lái đò thực sự là một tay lái ra hoa. Không bằng quá nhiều từ ngữ, câu văn, hình ảnh con thuyền lao vút qua khe hẹp được miêu tả trong những câu văn ngắn mà bản thân cách ngắt câu, sự kết hợp những động từ và danh từ nối tiếp: vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng… đã thể hiện sự điêu luyện khéo léo và sức mạnh của ông đò. Tốc độ phi thường của con thuyền dưới bàn tay vừa lái, vừa xuyên, vừa lượn của ông đò không chỉ như một mũi tên tre mà còn được gợi tả tinh tế qua làn hơi nước mà con thuyền xuyên qua, con thuyền không còn lướt trên mặt nước mà đã thực sự bay trong làn hơi nước trên mặt sóng. Tài năng của ông đò khi ấy đã bao hàm cả trí tuệ, sự trải nghiệm, sức mạnh thể lực, trình độ điêu luyện và bản lĩnh kiên cường – tất cả đều đạt tới mức phi phàm, kì diệu. Vậy là cuối cùng, bằng tất cả tài hoa, trí lực và sự dũng mãnh của mình, ông lái đò đã chiến thắng con sông Đà hiểm độc.
Cảnh vượt thác sông Đà có lẽ chính là một trong những kiệt tác nghệ thuật trong cuộc đời sáng tác của Nguyễn Tuân. Ông lái đò trí dũng, tài hoa đã chiến thắng con sông Đà hung bạo, hiểm ác một cách ngoạn mục. Khung cảnh vượt thác sông Đà có lẽ đã quá quen thuộc trong suốt hàng chục năm hành nghề của ông lái đò, nhưng dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân nó đã thực sự trở thành biểu tượng đẹp đẽ nhất nơi núi rừng Tây Bắc. Từng câu, từng chữ đều được Nguyễn Tuân chăm chút từng tí một, đến nỗi tưởng đầu người đọc đang được trên chính chuyến đò ấy, được tận mắt chứng kiến từng hành động, từng nước đi tài hoa của ông lái đò.
Viết về con người bình thường trong cuộc sống đời thường nhưng không hề tầm thường.
Nguyễn Tuân luôn tìm đến và khắc họa những vẻ đẹp ấy bằng ngòi bút tài hoa nghệ sĩ nhất. Khung cảnh vượt thác của ông lái đò - một nhịp sống thường niên trong suốt cuộc đời ông lái đò, qua ngòi bút của Nguyễn Tuân cớ sao nó lại đẹp đẽ và tuyệt mĩ đến vậy. Người nghệ sĩ tài hoa ấy đã chạm đến tuyệt đích của cái đẹp, đã thực sự thành công trên con đường đi tìm cái đẹp ấy. Không giống như “Chữ người tử tù”, trong câu chuyện của “Người lái đò sông Đà” Nguyễn Tuân không đi tìm cái đẹp của một thời đã qua nữa mà cái đẹp mà ông khám phá ở ngay trước mắt, trong chính cuộc sống đời thường nhất, đúng như cái nghệ danh mà người đời đặt cho ông - “Một người nghệ sĩ suốt đời đi săn tìm cái đẹp”.
Nguyễn Tuân đã vẽ lên một khung cảnh cảnh vượt thác đầy gay cấn và khốc liệt. Nếu coi người lái đò là người nghệ sĩ điều khiển con thuyền đầy điêu luyện thì Nguyễn Tuân đích thực là người nghệ sĩ chèo lái con thuyền ngôn từ đầy tài hoa. Chỉ qua một một khung cảnh vượt thác thôi, nhưng Nguyễn Tuân đã điều động cả một đội quân từ ngữ để diễn tả sự cuồng nộ của sông Đà và cả sự tài hoa của người lái đò. Nguyễn Tuân đưa người đọc đi từ cảm xúc này sang cảm xúc khác, từ hồi hộp, căng thẳng đến thở phào nhẹ nhõm. Cứ từ trùng vi thạch trận này đến trùng vi thạch trận khác, người đọc chưa khỏi thở phào lại phải tiếp tục đến với một cuộc chiến mới gay cấn và khốc liệt vô cùng. Trong công cuộc đi tìm “chất vàng mười đã qua thử lửa” của con người Tây Bắc nói riêng và người lao động Việt Nam nói chung trong thời kỳ mới, Nguyễn Tuân đã khai thác và khám phá một cách tỉ mỉ nhất, bằng con mắt và trái tim yêu thương nhất của người nghệ sĩ yêu thương và khát khao khám phá cái đẹp ở đời.
Khép lại trang viết của Nguyễn Tuân, dường như vùng đất Tây Bắc đã để lại trong chúng ta thật nhiều thương nhớ. Ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” là một thứ vàng mười như Nguyễn Tuân khẳng định “đã qua thử lửa”. Cũng từ đây, Nguyễn Tuân đã cho thấy một chủ nghĩa anh hùng mới trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã. Càng khám phá văn chương Nguyễn Tuân nói chung, “Người lái đò sông Đà” nói riêng ta càng thấm thía hơn lời nhận định của tác giả Anh Đức về người nghệ sĩ tài năng này: “Không biết chừng nào mới lại có một nhà văn như thế, một nhà văn mà khi ta gọi là một bậc thầy của ngôn từ ta không hề thấy ngại miệng, một nhà văn độc đáo vô song mà mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút đều như có đóng một dấu triện riêng”.
Đề 7: Phân tích vẻ đẹp của dòng sông Hương khi ở thượng nguồn
Dàn ý
1. Mở bài
- Dòng sông trong thi ca nhạc họa.
- Hình tượng dòng sông Hương với vẻ đẹp ở khúc thượng nguồn.
2. Thân bài
Ý nghĩa nhan đề
- Là một nhan đề lạ và hấp dẫn, khơi gợi hứng thú và tò mò cho người đọc đi vào tìm hiểu để tự tìm câu trả lời cho mình.
- Mở ra nội dung của tác phẩm, đầu tiên là vẻ đẹp của dòng sông Hương trên tất cả các góc nhìn phong phú và đa dạng, thứ hai là huyền thoại về cái tên “Hương” thơm và đẹp muôn đời của dòng sông.
Vẻ đẹp của con sông Hương ở thượng nguồn
* “Một bản trường ca của rừng già” mang đậm vẻ hào hùng, tráng lệ và sôi nổi:
- Vẻ hùng vĩ với hình ảnh những đoạn sông “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc…”.
- Vẻ đẹp rất thơ mộng và trữ tình khiến người ta không khỏi say mê, cảm thán bằng “vẻ dịu dàng, say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”.
=> Tính chí dương hùng tráng và nét dịu dàng, đắm say, trữ tình chí âm của dòng sông đã dung hợp, bổ khuyết cho nhau để tạo nên một Hương giang kỳ vĩ, cá tính và gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc.
* Dáng vẻ của một người con gái Di-gan:
- “phóng khoáng và hoang dại” thật quyến rũ, bí ẩn, cùng với “bản lĩnh gan dạ tâm hồn tự do và trong sáng”.
- Làm nổi bật lên cái vẻ sôi nổi tràn đầy sức sống của dòng sông, mang đến cả những hình dung về một dòng chảy lắt léo, ưa khám phá, ưa tự do được rừng già Trường Sơn hun đúc.
* “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”:
- Rũ bỏ cái cá tính mạnh mẽ, hoang dại để trở mình biến thành một người phụ nữ dịu dàng, một người mẹ bao dung, ngàn đời nuôi dưỡng những đứa con trong Huế bằng dòng sữa phù sa ngọt ngào, bằng hương thơm thân thuộc, bằng vẻ đẹp “dịu dàng và trí tuệ”.
- Nhắc nhở con người nhớ lại sự hy sinh to lớn của bà mẹ Hương giang ngàn đời.
=> Nhấn mạnh làm nổi bật mối quan hệ diệu kỳ, gắn bó sâu sắc của dòng sông với mảnh đất cố đô bao đời nay.
3. Kết bài
- Nêu cảm nghĩ về con sông Hương ở thượng nguồn.
- Đánh giá lại tác phẩm.
Bài làm
Ai từng đến Huế chắc hẳn sẽ không quên được những hình ảnh rất đỗi thơ mộng, trữ tình của một vùng đất kinh kỳ. Đó là những đền đài, lăng tẩm; là góc phố bình yên; là tà áo dài tím đầy dịu dàng, là dòng sông Hương êm đềm, duyên dáng… Dòng sông ấy trong tiềm thức con người không biết tự bao đời đã trở thành một nét Huế rất đằm thắm, êm ả. Để rồi khiến cho biết bao trái tim người nghệ sĩ phải thổn thức mà chắp bút viết thành văn thơ. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những tác phẩm đặc sắc khi viết về vẻ đẹp dòng sông ấy. Phân tích sông Hương ở thượng nguồn qua bút ký này sẽ thấy một tâm hồn trĩu nặng và tha thiết với dòng sông quê hương…
Người ta thường nghĩ đến sông Hương trong hình ảnh của sự dịu dàng, nên thơ nhưng nếu tìm về ngọn nguồn của nó, có thể thấy đây cũng là một dòng sông đầy cá tính. Nhìn về cội nguồn, sông Hương có mối quan hệ mật thiết với dãy Trường Sơn. Khi gắn với hình ảnh của dãy núi huyền thoại ấy, sông Hương hiển hiện như “một bản trường ca của rừng già” và không ngại bộc lộ mình bằng sự “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”.
Phân tích sông Hương, ta thấy dòng sông ấy có khi “mãnh liệt qua những ghềnh thác” nhưng chốc đã “cuộn xoáy vào những đáy vực bí ẩn” rồi lại trở về với sự “sự dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi của hoa đỗ quyên rừng”.
Cũng chính nơi thượng nguồn ấy, sông Hương đã sống như bản năng vốn có của “một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”. Phân tích sông Hương ta cũng nhận thấy, hình ảnh cô gái Di-gan được liên tưởng khi nói đến đặc tính của sông Hương đã cho thấy sự khám phá độc đáo của nhà văn. Sông Hương không chỉ đơn thuần là một một dòng sông dịu dàng đầy nữ tính mà bên trong nó có sự tiềm tàng của nét hoang dại và mãnh liệt đầy bí ẩn.
Ấy vậy mà khi vừa ra khỏi rừng, dòng sông ấy lại nhập vai thành một “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” mang nét đẹp “dịu dàng và trí tuệ”. Khi tác giả sử dụng cụm từ “người mẹ phù sa”, ta cảm thấy như dòng sông Hương mang trên mình thật nhiều sứ mệnh cao cả. Dòng sông ấy không chỉ bồi đắp dưỡng chất dồi dào để làm tươi tốt ruộng đồng, cây cỏ mà còn có vai trò to lớn trong việc vun xới cho biết bao giá trị về văn hóa được hình thành như thi ca, nhạc, họa để làm đẹp cho đời.
Nếu ngày xưa dòng sông là một cô gái Di-gan sống hết mình cho thỏa sự sôi nổi, trẻ trung thì khi thoát khỏi môi trường hoang dại của mình, dòng sông trưởng thành và mang dáng dấp của một người mẹ đầy trách nhiệm. Đồng thời cũng là nơi tiếp sức vững vàng cho tinh thần, cho cuộc sống con người mảnh đất Thừa Thiên và thành phố Huế…
Có thể thấy, với việc khắc họa những vẻ đẹp đáng quý của dòng Hương giang, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã góp vào bức tranh thắng cảnh của Việt Nam bằng những nét vẽ rất sinh động và tao nhã. Từ những nét vẽ ấy, ta lại thấy hiện lên cả một tấm lòng tha thiết với con sông quê Hương vì sự gắn bó sâu đậm của nó với lịch sử, văn hóa và cả tâm hồn của con người vùng đất cố đô.
Đề 8: Phân tích vẻ đẹp hào hoa, bi tráng trong bài thơ Tây Tiến
Dàn ý
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Quang Dũng
- Giới thiệu bài thơ Tây Tiến
- Dẫn dắt vấn đề cần nghị luận
2. Thân bài
- Hoàn cảnh ra đời bài thơ Tây Tiến
- Giới thiệu một số nét về những người lính Tây Tiến: hoàn cảnh xuất thân
Trải qua nhiều gian khổ nhưng vẫn lạc quan, kiên cường
- Trên chặng đường hành quân, họ đối mặt với biết bao hiểm nguy ở miền núi Tây Bắc hoang sơ và dữ dội:
Địa hình hiểm trở, quanh co, gập ghềnh: địa danh Sài Khao, Mường Lát gợi sự hẻo lánh, xa xôi; các từ láy giàu tính tạo hình: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, điệp từ “dốc”
Nhịp thơ bẻ đôi “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” gợi tả sự nguy hiểm tột cùng.
Hình ảnh nhân hóa: “cọp trêu người”, “thác gầm thét” gợi sự hoang sơ, man dại; thời gian: “chiều chiều”, “đêm đêm” những người lính phải thường xuyên đối mặt với điều hiểm nguy chốn rừng thiêng nước độc.
Sử dụng phần lớn các thanh trắc nhằm nhấn mạnh sự trắc trở, ghập ghềnh của địa hình.
Hình ảnh “súng ngửi trời” thể hiện tầm cao của núi non mà người lính phải vượt qua nhưng cũng có cái hóm hỉnh của người lính trong đó.
- Họ sống và chiến đấu trong điều kiện khắc nghiệt, thiếu thốn, bệnh tật: “đoàn binh không mọc tóc”, “ xanh màu lá”, nhưng vẫn mạnh mẽ “dữ oai hùm”.
Có tâm hồn lãng mạn, hào hoa
- Là những con người nặng tình: nỗi nhớ thốt lên thành lời “Tây Tiến ơi” là tiếng gọi thân thương, “nhớ chơi vơi”, “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói” là nỗi nhớ thường trực, bao trùm không gian.
- Nhạy cảm với vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống: “nhà ai Pha Luông...”, “Mai Châu mùa em...”, thanh bằng tạo cảm giác nhẹ nhàng, yên bình.
- Say mê trước cái đẹp trong đêm trại đuốc hoa:
Không khí đêm liên hoan tưng bừng với màu sắc rực rỡ, lộng lẫy: “bừng lên”, “hội đuốc hoa”, “khèn lên man điệu”; con người duyên dáng: “xiêm áo”, “nàng e ấp”.
Tâm hồn người lính bay bổng, say mê trong không khí ấm áp tình người: “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.
- Khung cảnh sông nước, con người vùng Tây Bắc:
Đẹp huyền ảo, hoang dại, thiêng liêng: “Chiều sương”, “hồn lau nẻo bến bờ”
Con người lao động bình dị, mộc mạc: “dáng người trên độc mộc”, cảnh vật duyên dáng, đầy sức sống: “trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
- Họ là những con người có tâm hồn lãng mạn, trái tim yêu thương “Mắt trừng gửi mộng”/ “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”, lấy hình bóng người thương nơi quê nhà làm động lực chiến đấu.
- Niềm thương, nỗi nhớ, tình cảm gắn bó luôn gửi lại nơi núi rừng Tây Bắc “Ai lên Tây Tiến ... / Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Mang vẻ đẹp bi tráng, hào hùng
- Vẻ đẹp bi tráng thể hiện qua sự hi sinh anh dũng của họ:
Hình ảnh người lính Tây Tiến “dãi dầu không bước nữa”, “gục lên súng mũ bỏ quên đời”: có thể hiểu hai câu thơ đơn thuần miêu tả khoảnh khắc nghỉ ngơi của người lính sau cuộc hành quân dài, cũng có thể hiểu đó là sự nghỉ ngơi vĩnh viễn trong sự thanh thản.
Sẵn sàng cống hiến tuổi trẻ của mình cho đất nước “rải rác biên cương mồ viễn xứ”, “chẳng tiếc đời xanh”, “anh về đất”, luôn ra đi thanh thản, nhẹ nhàng.
Cái chết đã được lí tưởng hóa như hình ảnh những tráng sĩ xưa: “áo bào”, “khúc độc hành”; thiên nhiên cũng đau đớn thay cho nỗi đau họ phải chịu.
Đoàn quân Tây Tiến một thời từng quyết tâm ra đi: “người đi không hẹn ước” “thăm thẳm một chia phôi. (liên hệ so sánh với câu thơ: “Người ra đi đầu không ngoảnh lại/ sau lưng thềm nắng lá rơi đầy” trong bài thơ Đất Nước của Nguyễn Đình Thi)
- Nêu cảm nhận riêng về hình tượng người lính Tây Tiến.
- Khái quát một số giá trị nghệ thuật tiêu biểu: bút pháp lãng mạn kết hợp với hiện thực, những sáng tạo trong việc sử dụng ngôn ngữ: nghệ thuật đối, tương phản, .. sáng tạo trong việc sử dụng hình ảnh thơ.
- Tổng kết giá trị nội dung: bài thơ đã tái hiện vẻ đẹp vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng của núi rừng Tây Bắc; hình tượng người lính.
3. Kết bài
- Khẳng định lại vẻ đẹp của hình tượng người lính Tây Tiến.
Bài làm
Nhắc đến Quang Dũng là nhắc đến một trong những thế hệ nhà thơ được tôi luyện và trưởng thành trong bom lửa thời kì kháng chiến chống Pháp. Ông là một người đa tài, có thể vẽ tranh, sáng tác nhạc, nhưng vẫn nổi tiếng và được nhiều người biết đến với tư cách một nhà thơ. Phong cách thơ Quang Dũng nổi bật lên chất phóng khoáng, hào hoa đầy lãng mạn. Bài thơ Tây Tiến là một bài thơ đem lại dấu ấn đậm nét, khắc ghi Quang Dũng vào sâu tâm trí độc giả. Nhớ về đồng đội, những miền đất và binh đoàn xưa, nơi mà tác giả từng vào sinh ra tử, nhà thơ đã kí thác tâm sự qua sự khắc họa đậm nét vẻ đẹp hào hoa, hào hùng và bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến.
Đề tài người lính là một đề tài vốn đã quen thuộc trong thi ca. Bởi người lính chính là trung tâm, là linh hồn, là sức mạnh mũi nhọn của dân tộc. Cuộc trường chính của dân tộc băng qua hai kẻ thù khổng lồ là Pháp và Mỹ, những kẻ thù mạnh mẽ nhất thế giới. Chính vì vậy, hình tượng người lính, những chàng Thạch Sanh của thế kỷ XX càng in đậm trong các sáng tác thơ văn. Ta bắt gặp một người lính chân chất thôn quê, mộc mạc, hiền lành nhưng lòng căm thù ngút ngàn trong Đồng chí của Chính Hữu; người chiến sĩ nặng ân tình, dù trở về với nắng vàng Ba Đình hoa lệ nhưng vẫn thầm nhắc nhở mình, tự dặn mình phải luôn nhớ nghĩa tình của một Việt Bắc đã hi sinh quá nhiều suốt 15 năm gắn bó trong Việt Bắc của Tố Hữu… Vẻ đẹp vừa bi thương vừa hào hùng của đoàn quân Tây Tiến trên đường hành quân:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Thủ pháp nghệ thuật đối lập giữa ngoại hình ốm yếu và tâm hồn bên trong đã làm nên khí chất mạnh mẽ của người lính. “Đoàn binh không mọc tóc” với “quân xanh màu lá” không giống kiểu ví von “văn chương” thường thấy. Ở đây, “không mọc tóc” là cách nói ngang tàng rất lính, hóm hỉnh vui đùa với khó khăn gian khổ của mình. Câu thơ không gợi ý nghĩ bi đát mặc dù ai cũng hiểu sự không mọc tóc và làn da xanh màu lá ở đây chính là hậu quả của bệnh sốt rét. Thế nhưng ta lại cảm tưởng trong giọng thơ là lời đây tự hảo, về bức chân dung lạ đến khác biệt, hóa thành đặc trưng mà chỉ lính Tây Tiến mới có.
Cái bi thương của người lính được gợi lên từ ngoại hình ốm yếu, tiều tụy, đầu trọc, da dẻ xanh như màu lá. Thực tế gian khổ thiếu thốn đã làm cho người lính đa dẻ xanh xao, Sốt rét làm họ trụi cả tóc. Quang Dũng không hề che giấu. Song, cái nhìn lãng mạn của ông đã thấy họ ốm mà không yếu, đã nhìn thấy bên trong cái hình hài tiều tụy của họ chứa đựng một sức mạnh phi thường. Đặc biệt hơn, với câu thơ: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc” không những gợi cho ta những gương mặt rắn rỏi, gân guốc, những dáng hình làm chúa sơn lâm cũng phải run hơi, mà hai chữ đoàn binh, như kết đọng lại trong một khối vững chắc, lại sử dụng từ Hán Việt, vì lẽ đó, đọc câu thơ, mà ngỡ binh đoàn dũng sĩ xưa, với sức mạnh của ngàn năm lịch sử, đang hùng dũng ùa vào trong tâm trí độc giả. Mạnh mẽ, oai phong biết bao.
Nhưng dáng hình chưa đủ, phải khắc họa thêm ánh “mắt trừng”, để tô đậm thêm khí chất dũng tướng, mãnh liệt: Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”. “Mắt trừng” đó là đôi mắt đang quắc sáng, phóng tia nhìn giận dữ về phía địch thủ. Ánh mắt ấy hướng về biên giới, nơi kẻ thù, nơi tử địa, cũng là lãnh thổ quốc gia, vừa chứa trong đó lòng căm thù sâu sắc, chứa trong đó dạ sắt gan vàng bảo vệ biên cương, lại ánh lên cả khao khát lập chiến công hiển hách. Ta chợt nhớ lại hình ảnh đội quân từ hổ trong thơ Phạm Ngũ Lão: “Tam quân ti hổ khí thôn ngưu”, hay như trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi: “Sĩ tốt kén tay từ hồ, bề tôi chọn kẻ vuốt nanh”. Những người lính, những anh bộ đội cụ Hồ của thế kỷ XX vẫn mang trong mình dáng dấp, hào khí, sức mạnh của thời Sát Thát chảy trong huyết quản.
Đến câu tiếp, chất hào hoa của lính Tây Tiến bật lên rõ rệt: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. “Dáng Kiều thơm” ấy chính là vầng sáng lung linh trong kí ức, làm hiện rõ nét đa tình và đời sống tình cảm dạt dào của người lính, vốn thường bị che phủ. Mơ dáng kiều, ta nhận ra những người lính ấy tâm hồn còn rất trẻ, còn chứa trái tim yêu đương mãnh liệt. dáng kiều để chỉ người con gái xinh đẹp, đó có thể là người thường, người yêu của những chàng lính trẻ, nhớ về họ, đó là điểm tựa tinh thần vững vàng để người lính chắc tay súng. Hóa ra, sau vẻ thô ráp bề ngoài, bên trong người lính Tây Tiến lại ấm nóng một trái tim đa tình, hào hoa. Lính Tây Tiến vốn là những chàng trai còn là học sinh, sinh viên, “xếp bút nghiên theo việc đao cung”, cho nên, những tâm hồn ấy vẫn đầy lãng mạn và bay bổng.
Vẻ đẹp hào hoa, hào hùng người lính còn được thể hiện qua lý tưởng hết sức thiêng liêng, cao đẹp:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Chiến trường là nơi chết chóc, là khu tử địa, đi dễ khó về. Đời xanh là chỉ cuộc đời đang độ đẹp tươi nhất, căng tràn nhất. Những người lính đường cái độ tươi đẹp nhất của cuộc đời đó, vậy mà sẵn sàng lao vào chốn tử địa, mà chẳng tiếc. Bởi họ đi vì lý tưởng thật cao đẹp: chiến đấu cho quê hương, chết cho quê hương, quyết tử cho tổ quốc quyết sinh.
Chiến tranh, có bao giờ thiếu đi sự mất mát. Quang Dũng, có lẽ là nhà thơ dám bước vào thế giới tang thương đó để làm bật lên chất hào hùng:
Áo bào thay chiếu, anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Khi miêu tả những người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng không hề nhấn chìm người đọc vào cải bị thương, bị lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái bị thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Cái sự thật bi thảm những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả mảnh chiếu che thân, qua cái nhìn của nhà thơ, lại được bọc trong những tấm áo bào sang trọng. Và rồi, cái bị thương ấy bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã.
Cái chết, sự hi sinh của những người lính Tây Tiến được nhà thơ miêu tả thật trang trọng. Cái chết ấy đã tạo được sự cảm thương sâu sắc ở thiên nhiên. Và dòng sông Mã đã trân trọng đưa tiễn linh hồn người lính bằng cách tấu lên khúc nhạc trầm hùng. Họ ra đi, nhưng tráng chí thì còn sống mãi, đó là tinh thần của những bậc trượng phu, ra đi vì nghĩa lớn, như vị đại tướng quân Trần Quốc Tuấn từng viết: “Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gọi trong da ngựa, ta cũng vui lòng”.
Tây Tiến là bức tượng đài bổ sung thêm cho hình tượng người lính, xuyên suốt chiều dài lịch sử của một đất nước nhiều những đau thương và mất mát. Nếu điểm lại, ta sẽ thấy những người con của đất Việt anh hùng: người lính mang hào khí Đông A và cải trang chí nam nhi mạnh mẽ với khao khát lập công danh trong Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão. Người lính nông dân chân chất nhưng đầy hào hùng, bất khuất, dùng những vũ khí thô sơ mà đối chọi lại với tàu đồng súng nổ trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu. Hình tượng tập thể đoàn quân ra trận mạnh mẽ, khi thê rợp trời, dòng người như thác lũ khiến đất rung trời chuyển trong Việt Bắc của Tố Hữu…
Có thể nói hình tượng người lính đều hiện lên trong sức mạnh, đó là sức mạnh của ý chi phí thường, sức mạnh của niềm tin tưởng. Những người chiến sĩ đều bật lên vẻ đẹp của lý tưởng, và sự ý thức và trách nhiệm. Họ là những con người gánh vác đại nghiệp, là người tiên phong, là sức mạnh mũi nhọn chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược, Nếu trong các sáng tác về người lính, chủ yếu nhấn mạnh đến sự mạnh mẽ, tầm vóc, sự anh hùng, bất khuất, thì Quang Dũng tạo một nét vẽ trần trụi hơn khi miêu tả về lính Tây Tiến. Đó là những người lính da dẻ xanh xao, sốt rét, trụi cả tóc. Nhưng qua ngòi bút lãng mạn của ông đã biên họ thành những bức chân dung lẫm liệt, oai hùng. Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề ngoài của những người lính Tây Tiến là những tâm hồn còn rất trẻ, những trái tim rạo rực, khao khát yêu đương (Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm). Một thế giới tâm hồn đầy mộng mơ là nét đặc trưng, biến thành huy hiệu riêng của lính Tây Tiến.
Nét cuối cùng khiến lính Tây Tiến trở nên đặc biệt, đó là khi Quang Dũng cho họ hiện lên qua sự hi sinh mất mát. Thậm chí, ta còn thấy cái tàn khốc của chiến tranh qua những vần thơ. Đây là điều các tác giả cố tránh đi khi nói về người lính và chiến tranh.
Từ nỗi nhớ về một đoàn binh, về những con người cụ thể đã hóa thân thành nỗi nhớ về một mảnh đất, một quê hương, Tây Tiến đã trở thành nỗi nhớ, niềm yêu tha thiết của Quang Dũng. Chạm khắc vào trái tim độc giả những vẻ đẹp riêng lạ, Tây Tiến hóa bất tử trong lòng bao thế hệ, bởi chính những vẻ đẹp hào hoa, hào hùng bi tráng của thời đại.