Giải trí

Bài văn mẫu phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu

Hùng Cường03/03/2024 14:57

Chiếc thuyền ngoài ra của Nguyễn Minh Châu là bức tranh hiện thực đầy màu sắc, ẩn sau đó chứa đựng câu chuyện về số phận cuộc đời con người. Kính mời quý bạn đọc theo dõi bài viết dưới đây để tìm hiểu thêm về tác phẩm này nhé. Bài viết sẽ cung cấp cho quý bạn đọc mẫu bài phân tích Chiếc thuyền ngoài xa chọn lọc hay nhất.

1. Tìm hiểu chung về tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu

Đôi nét về tác giả Nguyễn Minh Châu

- Nguyễn Minh Châu sinh năm 1930, mất năm 1989, quê ở làng Thơi, xã Quỳnh Hải (nay là xã Sơn Hải), huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An

- Đầu năm 1950, ông gia nhập quân đội, theo học Trường Sĩ quan Lục quân Trần Quốc Tuấn

- Từ năm 1952 đến năm 1958, ông công tác và chiến đấu tại Sư đoàn 320.

- Năm 1962, ông về Phòng Văn nghệ quân đội, sau chuyển sáng tạp chí Văn nghệ Quân đội

- Nguyễn Minh Châu được coi là một trong số những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới

- Năm 2000, ông được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật

- Tác phẩm chính: Cửa sông (tiểu thuyết, 1967), Những vùng trời khác nhau (tập truyện ngắn, 1970), Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972), Miền cháy (tiểu thuyết, 1977), Lửa cháy từ những ngôi nhà (tiểu thuyết, 1977), Những người đi từ trong rừng ra (tiểu thuyết, 1982), Mảnh đất tình yêu (tiểu thuyết, 1987), Từ giã tuổi thơ (tiểu thuyết, 1974), Những ngày lưu lạc (tiểu thuyết, 1981), Đảo đá kì lạ (tiểu thuyết, 1985), Trang giấy trước đèn (tập tiểu luận phê bình, 1994), Người đàn bà trên chiếc thuyền tốc hành (1983), Bến quê (1985), Chiếc thuyền ngoài xa (1987), Cỏ lau (1989),…

- Đặc điểm sáng tác:

+ Trước năm 1975: viết về đề tài chủ nghĩa anh hùng trong chiến đấu, mang thiên hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn

+ Sau năm 1975: cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức, mang tính triết lí sâu sắc; ngôn ngữ đời thường, bình dị, gần gũi

Đôi nét về tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa

Hoàn cảnh ra đời

- Tác phẩm được viết vào tháng 8 năm 1983, in trong tập truyện ngắn cùng tên

- Tác phẩm là một trong số những sáng tác tiêu biểu của văn học Việt Nam từ sau năm 1975 đến cuối thế kỉ XX

Tóm tắt tác phẩm

Để có thể xuất bản được một bộ lịch về thuyền và biển, nhận lời của trưởng phòng, nghệ sĩ Phùng đi tới một vùng biển đã từng là chiến trường cũ của anh thời chống Mĩ. Sau mấy buổi sáng phục kích, anh đã chụp được một cảnh “đắt” trời cho – cảnh chiếc thuyền ngoài xa trong làn sương sớm, đẹp như một bức tranh mực tàu. Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, anh đã ngạc nhiên đến sững sờ khi chứng kiến từ chính chiếc thuyền đó cảnh người chồng vũ phu đang đánh đập vợ mình một cách dã man, đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã đánh trả lại cha mình. Những ngày sau, cảnh tượng đó lại tiếp diễn và lần này anh đã ra tay can thiệp. Theo lời mời của chánh án Đẩu (một người đồng đội cũ của Phùng) người đàn bà hàng chài đã đến tòa án huyện. Tại đây, người phụ nữ ấy đã từ chối sự giúp đỡ của Đẩu và anh, nhất quyết không bỏ người chồng vũ phu. Chị đã kể câu chuyện về cuộc đời mình và đó cũng là lí do giải thích cho sự từ chối trên. Rời khỏi vùng biển với khá nhiều bức ảnh, Phùng đã có một tấm được chọn vào bộ lịch tĩnh vật hoàn toàn” về thuyền và biển” năm ấy. Tuy nhiên, mỗi lần đứng trước tấm ảnh, Phùng đều thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai và nếu nhìn lâu hơn bao giờ anh cũng thấy hình ảnh người đàn bà nghèo khổ, lam lũ bước ra từ tấm ảnh.

Bố cục (3 phần)

- Phần 1 (Từ đầu đến “chiếc thuyền lưới vó đã biến mất”): Hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng

- Phần 2 (Tiếp đó đến “chống chọi với sóng gió giữa phá”): Câu chuyện về người đàn bà hàng chài

- Phần 3 (Còn lại): Tấm ảnh được chọn trong bộ lịch năm ấy

Giá trị nội dung

Từ câu chuyện về một bức ảnh nghệ thuật và sự thật cuộc đòi đằng sau bức ảnh, truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng.

Giá trị nghệ thuật

- Cốt truyện có nhiều tình huống độc đáo, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống

- Chọn ngôi kể, hình thức kể chuyện phù hợp

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo, đặc sắc

- Xây dựng nhiều hình ảnh, hình tượng vừa chân thực vừa chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa sâu sắc

den-va-xanh-duong-dam-chuyen-nghiep-de-xuat-nganh-cong-nghiep-thuc-pham-ban-thuyet-trinh-su-menh-va-muc-tieu-1-.jpg

2. Dàn ý chi tiết phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa

Mở bài

- Giới thiệu một vài nét về tác giả và tác phẩm:

+ Nhà văn Nguyễn Minh Châu được mệnh danh “là người mở đường tinh anh” cho công cuộc đổi mới văn học có rất nhiều tác phẩm viết về cuộc sống thường ngày khiến cho người đọc phải trăn trở và day dứt.

+ Chiếc thuyền ngoài xa (sáng tác năm 1983) là một trong những tác phẩm vô cùng tiêu biểu của nhà văn Nguyễn Minh Châu để lại cho chúng ta những ấn tượng rất sâu sắc, những nhận thức thực sự thấm thía về con người và cuộc sống.

- Giới thiệu về hình ảnh của người đàn bà hàng chài:

+ Người đàn bà hàng chài chính là nhân vật được Nguyễn Minh Châu vô cùng dụng tâm khi xây dựng, để lại những ấn tượng sâu sắc nhất cho độc giả.

Thân bài

* Khái quát về hoàn cảnh cùng với xuất thân của người đàn bà:

- Xuất hiện ở trong lời kể của người đàn bà dưới cái nhìn của nghệ sĩ Phùng:

+ Người đàn bà hàng chài hoặc nhân vật người đàn bà - không có tên riêng nào nữa để có thể phân biệt được với những người đàn bà ở miền biển khác.

⇒ Tác giả với dụng ý muốn hóa nhân vật trở thành đại diện cho thân phận của những người phụ nữ lao động nghèo khổ và đông con.

+ Lúc nhỏ sống ở trên bờ, bị thủy đậu cho nên gương mặt chằng chịt những vết rỗ, sau đó có mang với một anh hàng chài đến với ngôi nhà mua lưới, người đàn bà theo anh ấy sống trên một con thuyền với công việc nặng nhọc và vất vả quanh năm.

+ Người đàn bà sinh rất nhiều đứa con, cuộc sống thì túng quẫn, lão chồng trở thành một người hung bạo đánh đập vợ nhằm trút giận. Người đàn bà chỉ biết câm lặng và chịu đựng vì những người con của mình.

- Người đàn bà hàng chài có ngoại hình:

+ Tuổi trạc ngoài bốn mươi

+ Thân hình thì cao lớn với những đường nét hết sức thô kệch cùng chiếc mặt rỗ.

+ Khuôn mặt đầy mệt mỏi sau những đêm dài thức trắng

+ Tấm lưng bạc phếch và rách rưới, nửa thân phía dưới trở nên ướt sũng.

* Tính cách và phẩm chất:

- Người đàn bà vô cùng nhẫn nhục và chịu đựng:

+ Thường xuyên bị lão chồng đánh bằng roi mây hết sức tàn nhẫn “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng chị không hề khóc than lấy một tiếng cũng không van xin và cũng chẳng chống trả. Điều duy nhất mà chị xin lão ta là hãy lên bờ đánh đừng để cho những đứa con phải chứng kiến chuyện ấy.

+ Khi đứng trước quan tòa, vị chánh án cũng khuyên bà ta nên bỏ chồng, nhưng chị lại van xin “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó”.

⇒ Nguyên nhân: chị muốn cam chịu và nhẫn nhịn vì những đứa con, muốn cho con có một gia đình và nuôi dạy chúng nó khôn lớn.

- Người đàn bà hàng chài rất giàu tình cảm và sự thương yêu:

+ Sự cam chịu và nhẫn nhịn của chị có gốc rễ là từ tình yêu thương con cái vô bờ bến.

+ Chị không nghĩ tới bản thân mình, không quan tâm tới nỗi khổ cực cũng như nỗi đau thể xác hằng ngày phải chịu đựng.

+ Cái chị luôn đau đáu chính là làm sao để con được ăn no, được ngủ ngon, chúng có một gia đình thật đầy đủ “đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con, không thể sống cho mình như trên đất được”.

+ Quá thương con, chị không muốn các con phải chứng kiến cảnh bạo hành nên van xin chồng hãy đánh trên bờ, gửi thằng Phác vào rừng.

+ Chị cảm thấy vô cùng tội lỗi với thằng Phác chỉ vì thương chị mà nó hận cả bố của mình.

- Người đàn bà hàng chài sở hữu tấm lòng vị tha và bao dung:

+ Chị cam chịu biết bao nhiêu trái đắng nhằm chắt chiu từng ít quả ngọt cho các con.

+ Bị người chồng đánh đập những chị vẫn không hề có chút căm giận, oán trách hay thậm chí là muốn trả mối hận.

+ Chị còn biết ơn khi người đó đã cùng chị chèo chống chiếc thuyền này rất trách nhiệm để nuôi đàn con.

+ Chị nhìn nhận cuộc đời bằng chính đôi mắt hi vọng và nhìn con người bằng tấm lòng nhân hậu, chị vẫn thấy được đâu đó “anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi” trong hình bóng của lão chồng hiện giờ.

+ Chị nhận tất cả lỗi lầm về mình, nghĩ sự hung hãn của chồng cũng từ chị mà ra.

- Người đàn bà hàng chài thấu hiểu được mọi lẽ đời:

+ Chị ý thức ra được thiên chức của một người phụ nữ và quy luật muôn đời của tạo hóa: “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn”.

+ Ở tòa án huyện, chị làm cho Phùng và Đẩu đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Qua câu chuyện đời của chị, nhân vật Phùng và Đẩu nhận ra rằng vì sao chị không muốn ly hôn, vì sao mà chị cam chịu đến đáng thương như vậy. Chị cũng dạy cho cả hai nhân vật này một bài học về cách nhìn nhận đời và nhìn người.

+ Chẳng những thế, người đàn bà ấy còn khiến cho người đọc có cái nhìn vô cùng thực tế về bản thân và cuộc sống. Mọi chuyện không chỉ đơn giản như vẻ ngoài của nó, nếu muốn suy xét hay đánh giá một ai đó thì cần phải thấu hiểu và tường tận mọi điều về họ.

* Cảm nhận của bản thân về người đàn bà hàng chài

- Người đàn bà chính là chân dung thành công của nhà văn Nguyễn Minh Châu, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người:

+ Thời gian dài sau này, mỗi khi nhìn thấy bức ảnh về chiếc thuyền ngoài xa, Phùng lại cảm thấy “người đàn bà đang bước ra khỏi tấm ảnh... hòa lẫn trong đám đông”.

⇒ Đó cũng chính là hình ảnh của người lao động khổ cực, sống cuộc đời đầy lầm lũi và bình dị nhưng vẫn sáng lên những phẩm chất vô cùng tốt đẹp.

- Người đàn bà là hình tượng nghệ thuật đầy ám ảnh mà nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn truyền tải những tư tưởng nhân đạo vào trong tác phẩm.

+ Niềm thương cảm, sự thấu hiểu và chia sẻ trước số phận vô cùng vất vả của kiếp người nghèo khổ, bế tắc bị cầm tù bằng nỗi đau về thể xác và tinh thần.

+ Phát hiện ra những vẻ đẹp đời thường hết sức nhân văn trong mỗi con người và thêm trân trọng những phẩm chất đáng quý ấy ở họ.

* Đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật

- Nhân vật đã được đặt vào trong những tình huống rất nghịch lý (bị chồng đánh nhưng không hề phản ứng; không chịu từ bỏ chồng…), mang tới cho người đọc những nhận thức về những điều ngang trái và phức tạp trong cuộc sống cùng những trường hợp éo le và đáng thương của số phận con người.

- Nhân vật người đàn bà hàng chài cũng có số phận rất cần sự chia sẻ, cảm thông trong nỗi cay đắng và khổ nhục đời thường. Điều đáng được trân trọng ở chị chính là vẻ đẹp về tình mẫu tử, sự bao dung cùng đức hi sinh.

- Nhân vật đã được khắc họa vô cùng chân thực, sống động thông qua ngôn ngữ, hành động, thông qua những hình ảnh và biểu tượng, ngôn ngữ vô cùng giản dị mà lại giàu ý vị, triết lý.

Kết bài

Khái quát những giá trị cùng ý nghĩa rút ra từ nhân vật người đàn bà hàng chài.

Danh sách một số đề thi phân tích truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa"

Đề 1: Phân tích tình huống truyện Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu

Đối với một tác phẩm truyện ngắn điều làm nên linh hồn và thành công của truyện đó chính là cốt truyện hấp dẫn. Và để cho ra đời được một cốt truyện hấp dẫn đòi hỏi tác giả phải xây dựng được một tình huống truyện trau chuốt, mỹ mãn. Chiếc thuyền ngoài xa là một truyện ngắn như thế. Với một cốt truyện tài tình, bất ngờ Nguyễn Minh Châu đã truyền tải thành công được ý tưởng của mình và để lại nhiều ấn tượng khó quên trong lòng độc giả.

Trước tiên ta cần hiểu tình huống truyện là gì mà lại có vai trò quan trọng đến như thế. Tình huống truyện là cách sắp xếp các sự việc, không gian, thời gian, nhân vật theo một trình tự hợp lí để thông qua đó nhân vật hiện lên với màu sắc tâm lý rõ nét nhất, làm nổi bật chủ đề của tác phẩm. Thông thường trong truyện ngắn có ba loại tình huống truyện phổ biến: tình huống hành động; tình huống nhận thức và tình huống tâm trạng. Trong đó, tình huống hành động là xây dựng hành động có tính bước ngoặt cho tạo hình nhân vật; tình huống tâm trạng thiên về cảm xúc, diễn biến tâm lí nhân vật ở mặt trong và mặt ngoài còn tình huống nhận thức là những giây phút nhân vật tự chiêm nghiệm; tự giác ngộ những chân lí thông qua những bối cảnh cụ thể. Truyện ngắn “ chiếc thuyền ngoài xa” được xây dựng trên tình huống truyện nhận thức.

Tình huống truyện đầu tiên được mở ra hết sức độc đáo: Anh phóng viên Phùng là một tay săn ảnh nghệ thuật. Phùng có thể bỏ ra vài tuần đi công tác và vài ngày để kiếm tìm cho mình một bức ảnh ưng ý. Vào một buổi sáng sớm lang thang trên bờ biển, anh vô tình bắt chụp khoảnh khắc tuyệt đẹp của đất trời sương mờ: hình ảnh con thuyền mở ảo trong sương sớm nhạt nhòa. Dưới con mắt người nghệ sĩ, cảnh vật ấy hiện lên thật đẹp, thật nên thơ: vẻ đẹp trên mặt biển mờ sương như một bức tranh mực tàu của danh họa thời cổ, mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa và màu hồng của mặt trời. Con người mang dáng dấp của sự làm chủ, vĩ đại đầy tự hào: ngồi im phăng phắc như tượng trên mũi thuyền đang hướng mặt vào bờ. Bức tranh thiên nhiên hiện lên trong tâm tưởng người nghệ sĩ mang vẻ đẹp thanh nhã, toàn bích, gây nên xúc động “bóp nghẹn trái tim”. Và rồi từ cái đẹp, người nghệ sĩ ấy thoảng thốt nhận ra rằng: À cái đẹp có sức lan tỏa vô cùng mãnh liệt, nó như gia vị làm sáng tâm hồn người, thanh lọc tâm hồn ta. Khoảnh khắc cái đẹp của tạo hóa lúc này choáng ngợp lấy tâm hồn Phùng, anh không cưỡng nổi lòng mình bấm máy lia lịa để thu hết cái khoảnh khắc đáng giá vô ngần ấy.

Thế nhưng khi con thuyền cập bờ, bước ra từ bức tranh toàn bích ấy lại là một câu chuyện đau xót. Đó là vẻ mệt mỏi, bơ phờ của những người hàng chài sau chuyến ra khơi mệt nhọc mà chẳng thu được gì. Là hình ảnh của người chồng vũ phu, thẳng tay rút chiếc thắt lưng lính ngụy ngày xưa ra quật tới tấp vào lưng vợ mình, vừa đánh vừa nguyền rủa cay nghiệt: “Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ,,,” Người đàn bà không hề chống cự, phản kháng mà chỉ biết khóc lóc, van nài, cam chịu trong vô vọng, mặc cho ông chồng thẳng tay hành hạ thân xác mình. Tại sao lại như vậy? Hiện diện trong tâm trí Phùng khiến anh chẳng thể nào lí giải cho kì được. Chưa kịp định hình thì trước mắt anh hình ảnh một đứa trẻ nhỏ lao tới, đó có lẽ là đứa con của mụ đàn bà kia. Nó lao tới chỗ bố nó, giật chiếc thắt lưng rồi vung mạnh đập vào ngực bố nó để bảo vệ mẹ nó. Trời một đứa trẻ tại sao lại có thể làm như thế với người đã sinh ra nó có công dưỡng dục nó. Nghịch lý của của cuộc sống đã hiện diện quanh đây: một người vợ tốt bị hành hạ nhưng vẫn không bỏ chồng; một người chồng ghét vợ, đánh vợ nhưng không bỏ vợ và một đứa con có thể sẵn sàng xuống tay với bố để bảo vệ mẹ. Tình huống truyện đi từ những bất ngờ này đến bất ngờ khác, chuyển đổi linh hoạt, thống nhất đã bộc bạch nỗi niềm trăn trở của Nguyễn Minh Châu, đó là mối quan hệ giữa nghệ thuật giữa văn chương với cuộc sống con người. Bước ra từ một bức tranh toàn bích, đẹp đẽ chưa chắc đã là một sự hoàn hảo, đôi khi nó lại chính là một sự thật trần trụi. Nghệ thuật là một cái gì đó xa vời, mờ ảo như chiếc thuyền ngoài khơi xa; còn hiện thực cuộc sống lại chỉ được hiện diện khi nó được quan sát một cách trực tiếp, rõ nét, tai nghe mắt thấy. Nghệ thuật chỉ vẹn tròn và có ý nghĩa chỉ khi nó khắc họa được hết cuộc sống, phản ánh được cuộc sống, phát triển cuộc sống tốt đẹp hơn. Nỗi lòng của Nguyễn Minh Châu cũng thay lời mà Nam cao muốn gửi gắm: “nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than… (Trăng sáng)”.

Đâu chỉ dừng lại ở đó, Nguyễn Minh Châu còn mang đến một triết lý nhân sinh sâu sắc qua một tình huống đặc sắc nữa. Đó chính là giây phút tại huyện khi người đàn bà được bao công Đẩu hết sức khuyên răn, đưa ra đủ mọi thứ lí lẽ hợp tình hợp lí trên đời nhưng người đàn bà kham khổ kia vẫn xin không bỏ chồng. Dưới con mặt người ngoài cuộc nhìn vào thì bỏ chồng là cách tốt nhất để giải thoát cho chị ta, để chị ấy được sống cuộc sống tốt đẹp hơn thế nhưng chị ta lại xin, van nài không cho bỏ chồng. Người đàn bà ấy có những lí lẽ cho riêng mình, người đàn bà ấy đã nhìn thấu suốt một cuộc đời, đã trải nghiệm những cái mà Đẩu và Phùng chưa bao giờ thấy được: “các chú đâu có thể hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhục…”, “ chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông…”, “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không phải sống cho mình như ở trên đất được!.

Những lời thở than người đàn bà hàng chài khiến Đẩu và Phùng vỡ lẽ được nhiều điều: Phán quyết bỏ chồng của Tòa dưới con mặt của người ngoài đó là sự giải thoát cho người phụ nữ nhưng thực ra nó lại là quyết định đánh đổi hết tất cả của người vợ; người đàn bà dù mạnh mẽ đến đâu cũng cần có một bờ vai nương tựa, chở che; Người đàn ông vũ phu ấy lại đáng thương hơn là đáng trách và một chân lý không thể chối bỏ: những kiến thức sách vở chỉ là kẻ ngây thơ trước thực tế muôn màu, muôn sắc, phức tạp.

Với hai tình huống truyện độc đáo, bất ngờ được đặt xen kẽ, thống nhất trong cốt truyện đã làm nổi bật lên chiều sâu tư tưởng và giá trị cho truyện ngắn. Thông qua truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn nhắn gửi đến độc giả một triết lý vô cùng sâu sắc: Để thấu hiểu hết cái sự đời ta không nên chỉ ngắm nhìn nó qua lăng kính của sách vở mà phải đi sâu đi sát vào thực tế, tìm tòi, khám phá, và cảm nhận để có thể ngắm nhìn hết cái khối đa diện của cuộc sống.

Đề 2: Phân tích về hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa

Nguyễn Minh Châu là nhà văn tài năng với sức sáng tạo dồi dào, bằng cái tâm của người nghệ sĩ, ông luôn trăn trở trước những hiện thực của đời sống và đặt ra trách nhiệm của người nghệ sĩ khi đứng trước thực tại đó. “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Minh Châu được sáng tác trong giai đoạn đổi mới văn học, đồng thời cũng là tác phẩm điển hình cho quá trình chuyển hướng từ cảm hứng sử thi lãng mạn huyền ảo sang tính triết luận về những giá trị nhân bản đời thường. Trong truyện, thông qua hai phát hiện của nhân vật Phùng, tác giả Nguyễn Minh Châu đã thể hiện được những đánh giá, quan điểm về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật, giữa người nghệ sĩ và nhân dân.

Phát hiện đầu tiên của nhiếp ảnh gia Phùng là việc chứng kiến khung cảnh biển buổi sáng trong sương mai, đó là khung cảnh đẹp đẽ, tuyệt bích như bức họa mực tàu. Để hoàn thành nhiệm vụ chụp bộ ảnh lịch treo tết, Phùng đã tới một vùng biển để thực hiện tác nghiệp, đây cũng là nơi mà Phùng từng cùng đồng đội cầm súng chiến đấu. Sau nhiều ngày tác nghiệp, cuối cùng Phùng cũng đã bắt gặp được khung cảnh trời cho, đó là khung cảnh rộng lớn của biển với chiếc thuyền ngoài xa mà “mái thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu trời sương mù màu trắng như có sữa pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào”, trên thuyền là vài bóng người ngồi im phăng phắc.

Đứng trước khung cảnh trời cho ấy, Phùng đã bấm máy liên tục như sợ để lỡ mất dù chỉ là một khoảnh khắc. Bức tranh cảnh biển hài hòa, toàn bích đã làm cho trái tim người nghệ sĩ như có cái gì bóp thắt vào. Trong giây lát, Phùng đã nhận ra được chân lí của sự hoàn mĩ, thì ra đứng trước cảnh đẹp, trước sự hoàn mĩ của cuộc sống, tâm hồn người nghệ sĩ có thể được thanh lọc để trở nên trong trẻo hơn. Dường như trong bức tranh cảnh biển với chiếc thuyền ngoài xa, người nghệ sĩ ấy đã bắt gặp được cái tận thiện, tận mĩ, tâm hồn cũng được gột rửa để trong trẻo, tinh khôi hơn.

Nếu phát hiện đầu tiên của Phùng mang tính khám phá thì phát hiện thứ hai lại mang tính nghịch lí. Trong khung cảnh lung linh, tuyệt mĩ của cảnh biển Phùng ngỡ ngàng phát hiện ra cảnh bạo lực gia đình - sự thật tàn nhẫn trong góc khuất cuộc sống của những con người nghèo khổ. Từ một trong những chiếc thuyền bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi với vẻ ngoài cam chịu cùng một người đàn ông hung dữ, độc ác lấy việc đánh vợ làm phương thức giải tỏa mọi đau khổ. Người đàn ông vừa trút những trận đòn roi dã man lên người đàn bà tội nghiệp vừa rít lên bằng cái giọng đau đớn “Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ”.

Khi chứng kiến cảnh bạo lực ấy, Phùng đã kinh ngạc mất mấy phút đầu vì anh không tưởng tượng được vì sao con người có thể đối xử tàn nhẫn với nhau đến vậy. Anh Phùng từng là người lính, từng cầm súng đấu tranh cho tự do, bảo vệ cho con người nên anh không thể chịu được khi chứng kiến cảnh đánh đập dã man của người đàn ông với vợ của mình, anh đã ném chiếc máy ảnh, phương tiện tác nghiệp của người nghệ sĩ để lao vào ngăn cản người đàn ông để bảo vệ người đàn bà.

Sau phát hiện mang tính nghịch lí này, Phùng đã cay đắng nhận ra rằng đằng sau vẻ đẹp toàn bích, hoàn thiện kia lại là những góc khuất đầy ngang trái, đau khổ của cuộc sống. Chiếc thuyền ở ngoài xa có thể tạo nên vẻ đẹp toàn bích, ảo diệu nhưng nếu đến gần lại thật đắng cay, đau khổ. Trong câu chuyện của người đàn bà tại tòa án huyện, Phùng nhận thức được chân lí éo le của cuộc sống. Hòa bình đã lập lại, con người phải đối mặt với những khó khăn mới, đó chính là cuộc sống đau khổ của thực tại. Qua đó Phùng ý thức được trách nhiệm của người nghệ sĩ, người nghệ sĩ đích thực không phải chỉ nhìn cuộc sống như chiếc thuyền ngoài xa mà cần thực sự thấu hiểu, đi sâu khám phá cuộc sống của con người, có như vậy tác phẩm được sáng tạo mới là nghệ thuật đích thực.

Thông qua hai phát hiện của nhân vật Phùng, tác giả Nguyễn Minh Châu đã đặt ra mối trăn trở về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời, giữa người nghệ sĩ và người dân. Qua truyện ngắn tác giả cũng đặt ra trách nhiệm của người nghệ sĩ: trước khi người nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp thì hãy học cách thấu hiểu, đồng cảm, yêu thương đối với con người.

Đề 3: Cảm nhận về hình tượng nhân vật Phùng trong Chiếc thuyền ngoài xa

Trong thể loại văn xuôi viết về người dân Việt Nam trước năm 1945 có rất nhiều tác phẩm để đời. Với cuộc sống cùng cực dưới ách thống trị của bọn chúa đất ở miền núi, chúng ta có "Vợ chồng A Phủ", hay chủ nghĩa anh hùng đậm chất sử thi – "Rừng Xà nu"… Nhưng sau đó, năm 1986, xã hội có sự thay đổi, nước ta xóa bỏ bao cấp, chuyển sang nền kinh tế thị trường vì thế văn học cũng có bước chuyển mình. Đề tài thế sự và đạo đức được các nhà văn xoáy sâu vào khai thác. Và "Chiếc thuyền ngoài xa" là một tác phẩm tiêu biểu cho thời kỳ ấy.

Được coi là "người mở đường tinh anh và tài năng nhất"( Nguyên Hồng), Nguyễn Minh Châu- cây bút tiên phong của văn học Việt nam thời kỳ đổi mới đã có nhiều tác phẩm ấn tượng. Một trong những tác phẩm thành công của ông là "Chiếc thuyền ngoài xa". Truyện ngắn được sáng tác năm 1983 đến năm 1987 in trong truyện ngắn cùng tên. Truyện ngắn tiêu biểu cho cảm hứng đời tư thế sự, tiêu biểu cho xu hướng chung của văn học thời kì đổi mới. truyện ngắn có một tình huống truyện hết sức độc đáo. Tình huống ấy được thể hiện qua nhãn quan của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Nhân vật này được coi là nhân vật thể hiện triết lý cũng như quan điểm của tác giả, là phương tiện để tác giả mang suy nghĩ của mình đưa đến cho người đọc.

Tình huống truyện trong tác phẩm là tình huống nhận thức, một tình huống bất ngờ và đầy nghịch lý. Tình huống nhận thức này là được dành cho nhân vật Phùng. Phùng là nghệ sĩ nhiếp ảnh, theo yêu cầu của trưởng phòng, anh tới một vùng biển từng là chiến trường xưa của anh để chụp những bức ảnh cho tấm lịch nghệ thuật thuyền và biển. Tại đây anh đã nhận thức được nhiều điều. Cảm xúc của nhân vật này qua những phát hiện của mình đã thể hiện nội tâm cũng như suy nghĩ của anh, giúp người đọc cảm nhận vẻ đẹp nơi con người này. Trước hết, anh là người có tâm hồn nghệ sĩ. Sau mấy buổi sáng "phục kích", anh đã chụp được "cảnh đắt trời cho". Đó là cảnh ban mai vùng ven biển, với "mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào". Với tâm hồn nghệ sĩ của mình, anh đắm say, ca tụng cảnh đẹp như "bức tranh mực tàu của danh họa thời cổ". Rồi anh cảm thấy tràn ngập niềm hạnh phúc "bối rối, tái tim như có gì đó bóp thắt vào". Anh thấy được cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn, cảm nhận được chân- thiện-mĩ của cuộc đời. Anh cảm thấy tâm hồn mình như được thanh lọc, trở nên trong trẻo và thanh khiết. Từ đó, anh nhận thức "bản thân cái đẹp là đạo đức". Bằng con mắt và tâm hồn nghệ sĩ của mình, anh đã đưa đến cho người đọc một quan niệm về cái đẹp. Đó chính là cái đẹp là phải có tác dụng thanh lọc tâm hồn, hướng con người đến cái hoàn mĩ.

Không chỉ là người có tâm hồn nghệ sĩ, nhân vật Phùng còn là một người tốt bụng, có lòng đồng cảm với mọi người, mang những đức tính của một người chiến sĩ. Điều này được thể hiện qua phát hiện thứ hai của anh. Từ chiếc thuyền đẹp như ngư phủ kia, bước ra một cặp vợ chồng: người đàn bà xấu xí mỏi mệt, người đàn ông thô kệch dữ dằn. Họ là những con người hiện thân cho sự lam lũ, nhọc nhằn, nghèo khó của người dân hàng chài. Sẽ không có gì nếu cảnh tượng nghiệt ngã này không xảy ra trước mắt anh. Người chồng đánh đạp vợ một cách dã man, vừa đánh vừa chửi "mày chết đi cho ông nhờ", "chúng mày chết đi cho ông nhờ". Người vợ thì cam chịu trận đòn, không hề phản kháng lại. Đứa con thương mẹ, xông vào đánh lại bố thì bị ăn hai cái tát. Một cảnh bạo lực gia đình diễn ra ngay trước mắt Phùng. Mặc dù đã chứng kiến biết bao cảnh đau thương trên chiến trường nhưng anh vẫn không khỏi kinh ngạc trước sự việc này. Nó hoàn toàn trái ngược với cảnh đẹp thơ mộng nơi đây. Với anh- một người đã trải qua bao nhiêu khó khăn, vượt qua thời kì khó khăn của chiến tranh, anh không thể để cảnh bạo hành này tiếp tục diễn ra. Anh đã nói chuyện này với chánh án Đẩu- bạn của anh. Anh mong muốn mình có thể giúp gì được cho người đàn bà nghèo khổ kia. Quả là một người chính nghĩa. Anh luôn đứng về lẽ phải, muốn bảo vệ lẽ phải và phê phán tố giác những điều xấu, điều ác.

Ngoài ra, nhân vật Phùng còn là người chịu thay đổi suy nghĩ cho phù hợp với hoàn cảnh, không bảo thủ, chấp nhận những cái sai của mình. Ngay từ ban đầu, khi chụp được "cảnh đắt trời cho", anh đã cho rằng cái đẹp là đạo đức, có tác dụng thanh lọc tâm hồn con người. Nhưng khi chứng kiến cảnh bạo hành bên chiếc xe tăng hỏng cùng với những tâm sự của người đàn bà hàng chài, anh đã nhận ra những điều mới. Anh nhận thức được là phải nhìn nhận mọi việc một cách toàn diện Triết lý mà Phùng nhận ra cũng chính là thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm. Nghệ thuật không chỉ bắt nguồn từ cuộc sống mà phải gắn liền với cuộc sống.

Nhân vật Phùng là nhân vật không thể thiếu trong tác phẩm này của Nguyễn Minh Châu. Anh vừa là nhân vật tạo tình huống, vừa là nhân vật gắn kết các sự kiện truyện với nhau, thể hiện thông điệp mà tác phẩm muốn gửi gắm. Là một người có tâm hồn chiến sĩ và nghệ sĩ, Phùng đã để lại nhiều ấn tượng tốt trong lòng người đọc.

Đề 4: Nêu cảm nhận về hình ảnh của Người đàn bà hàng chài trong tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa"

Nguyễn Minh Châu là một nhà văn tiêu biểu trong nền văn học Việt Nam giai đoạn chống Mĩ, cũng được coi là "người mở đường tinh anh và tài năng" cho công cuộc đổi mới nền văn học từ sau năm 1975. Nhà nghiên cứu hàng đầu nước Nga Nikulin đã từng nhận xét: "Các nhân vật của Nguyễn Minh Châu trước 1980 được Nguyễn Minh Châu tắm rửa sạch sẽ, được bao bọc trong bầu không khí vô trùng". Ta có thể thấy được điều ấy thông qua nhân vật Nguyệt trong tác phẩm "Trăng sáng". Giai đoạn sau này, nổi bật hơn là truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" mang rất nhiều cảm hứng thế sự cùng với những triết lý nhân sinh hơn. Nhưng quan điểm trong sáng tác của ông là "gắng đi tìm các hạt ngọc còn ẩn giấu trong bề rộng tâm hồn con người" thì không hề thay đổi. Nhân vật trung tâm trong tình huống truyện nghịch lý của truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" chính là nhân vật người đàn bà hàng chài. Từ nhân vật ấy, nhà văn đã bộc lộ được tấm lòng nhân đạo và gửi gắm vào những bức thông điệp về nghệ thuật và về cuộc đời.

Đọc tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" ta có thể thấy nhân vật người đàn bà hàng chài đã được nhà văn miêu tả là người đàn bà trạc ngoài 40. Và khi đề cập tới nhân vật này thì Nguyễn Minh Châu không muốn gọi bằng một cái tên riêng nào cả mà gọi bằng một cách phiếm định: "mụ" hoặc "người đàn bà hàng chài"… Việc nhà văn không đặt tên cụ thể cho nhân vật của mình không phải là ngẫu nhiên vô tình mà đó chính là một dụng ý trong nghệ thuật sâu xa: Ông muốn nhấn mạnh đó chỉ là một trong số những người đàn bà có số phận đau khổ, bất hạnh và cần cảm thông sẻ chia mà thôi.

Người đàn bà hàng chài có một thân hình quen thuộc thường thấy ở người đàn bà vùng biển cùng với những nét thô và mặt rỗ “khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như buồn ngủ”. Đây chính là hình ảnh của một người lao động vô cùng lam lũ và đau khổ. Có lẽ gánh nặng trong cuộc mưu sinh đầy sóng gió trên biển cả đã đem đi tất cả của chị: từ sinh lực, niềm vui với sức sống. Sự nghèo khổ và nhọc nhằn tới mức nhếch nhác và thảm hại còn hiện rõ nét trong chi tiết miêu tả về tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân phía dưới ướt sũng. Sự khốn khổ của chị còn xuất hiện ngay trong dáng vẻ: "sợ sệt, lúng túng" khi ở tòa án, "tìm đến một góc tường để ngồi". Thậm chí khi chánh án Đẩu phải mời đến lần thứ hai thì chị mới bắt đầu "rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghé và cố thu người lại". Có lẽ đó chính là dáng vẻ của một con người vô cùng tội nghiệp luôn thấy sự xuất hiện của mình trong cuộc đời này là một điều phi lí, luôn mặc cảm và tự ti, do đó mà muốn giảm thiểu đi sự vướng víu, phiền phức và khó chịu mà mình đã từng gây ra cho mọi người xung quanh.

Nguyễn Minh Châu không chỉ dừng lại ở việc miêu tả vẻ ngoài của nhân vật mà ngòi bút thấm đẫm được tinh thần nhân đạo của ông đã lách thật sâu vào trong để có thể khám phá được cái mạch ngầm hiện thực liên quan đến số phận bất hạnh của người đàn bà hàng chài ấy. Ấn tượng sâu sắc nhất về sự bất hạnh mà người đàn bà có và đưa cho người đọc chính là thái độ hết sức cam chịu và nhẫn nhục của chị. Khi đi qua một bãi xe tăng hỏng trước lúc tới bên chiếc xe, người đàn bà đã đứng lại "ngước mắt nhìn ra ngoài ….rồi đưa một cánh tay lên định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống đưa cặp mắt nhìn xuống chân". Có thể nhận thấy rằng đây là nơi hết đỗi quen thuộc với chị, một sự quen thuộc đến khủng khiếp bởi những trận đòn roi đã thành lệ của lão chồng: “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Cặp mắt nhìn xuống dưới chân mệt mỏi tựa như một kẻ tội đồ đang chờ đợi một hình phạt không thể tránh khỏi. Khi bị đánh một cách dã man, người đàn bà vẫn chịu đòn với một vẻ cam chịu và nhẫn nhục, đó chính là thái độ của một con người đang nhẫn nhục để có thể thực hiện nghĩa vụ đau khổ của mình, không hề oán thán, không thấy bất bình và không né tránh.

Người đàn bà hàng chài không chỉ bị bạo lực về thể xác, mệt mỏi sau những đêm phải thức trắng kéo lưới, không chỉ cam chịu những đau đớn từ những trận đòn roi thực sự tàn nhẫn của lão chồng vũ phu mà còn chịu giày vò nặng nề về những tổn thương tinh thần, về sự nơm nớp lo sợ cho con cái bị tổn thương khi phải chứng kiến những cảnh tượng trái ngang. Mô tả hình ảnh của một người mẹ đang vừa khóc lại vừa phải "chấp tay vái mấy vái để đứa con để nó đừng phạm phải một tội ác trái luân thường đạo lí". Nguyễn Minh Châu đã thể hiện lên nỗi xót thương vô tận cho sự đau khổ tận cùng của người đàn bà hàng chài. Chưa dừng lại ở đó, chị còn bị gánh nặng về cơm áo, về cuộc sống nghèo túng đưa đẩy vào cái vòng lặp bất hạnh. Trước năm 1975, mỗi khi biển động thì cả nhà toàn phải ăn xương rồng luộc chấm với muối. Khi cách mạng qua đi, cuộc sống cũng đỡ đói khổ hơn nhưng nỗi lo cơm áo vẫn còn nguyên đó.

Từ thân phận của người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu muốn gợi lên cho độc giả những suy nghĩ âu lo về cuộc chiến đấu chống lại sự đói nghèo tăm tối và bạo lực còn cảm thấy gian nan và kéo dài hơn cả cuộc chiến đấu chống ngoại xâm. Và chừng nào còn chưa thoát ra khỏi cuộc sống đói nghèo thì chừng đó con người vẫn luôn phải chung sống cùng với cái xấu, cái ác. Chúng ta đã đổ không biết bao nhiêu xương máu trong suốt hàng trăm, hàng ngàn năm qua để giành được sự độc lập tự do trong cuộc chiến đấu bởi vì quyền sống của toàn dân tộc. Nhưng chúng ta sẽ cần phải tiếp tục làm gì trong công cuộc chiến đấu giành lại quyền sống cho từng con người, làm gì để có thể đem đến cơm ăn áo mặc và ánh sáng của nền văn hóa cho vô vàn những con người đang đắm chìm trong cuộc sống đói nghèo và u tối.

Nếu bạn đọc từng yêu thích nhân vật nữ trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu thì sẽ thấy không ở đâu chứa được yếu tố "thiên nữ tính" lại có thể thăng hoa tuyệt vời như khi miêu tả người đàn bà hàng chài rách rưới này. Vẻ đẹp ẩn lấp phía sau mà người đọc có thể cảm nhận được trước tiên ở người đàn bà hàng chài ấy là vẻ đẹp sâu sắc từng trải. Khi nói chuyện cùng với Đẩu và Phùng, người đàn bà hàng chài quê mùa và thất học hiểu lẽ đời ấy đã khiến Đẩu và Phùng trở thành những người thực sự nông nổi và hời hợt. Trong khi Đẩu và Phùng cảm thấy bất bình trước lão chồng tàn nhẫn, thấy ông ta là một kẻ độc ác nhất vùng biển thì người đàn bà hàng chài đã giúp họ nhận ra được biết bao điều sâu xa trong cuộc sống. Chị cho hay: chồng chị trước kia vốn là anh con trai vô cùng hiền lành, cục tính, nhưng bị rơi vào cuộc sống luẩn quẩn và bế tắc cho nên hắn đã trở thành kẻ tha hóa, vũ phu tàn bạo. Đó là một sự nhìn nhận hết sức sâu xa và thấu hiểu được lẽ đời. Người đàn bà chỉ rõ ra sự thiếu thực tế của nhân vật Đẩu và Phùng: "Lòng các chú đâu phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ khó nhọc". Người đàn bà hàng chài cũng chỉ ra một hiện thực vô cùng tàn nhẫn: người phụ nữ cần một người đàn ông để có thể chèo chống lúc phong ba sóng gió cho dù hắn có man dợ và tàn bạo đến mấy. Như vậy, chị đã cho nhân vật Phùng và Đẩu thấy được cái khó khăn gấp bội của những người phụ nữ trong công cuộc mưu sinh trên biển cả, thực sự bất cập và tiềm ẩn những hiểm nguy, đe dọa. Người đàn bà hàng chài ấy còn chỉ ra được sự bất cập trong cuộc sống của Đảng và của chính quyền Cách mạng. Chị cho thấy rằng từ ngày cách mạng đi về, cách mạng đã cấp đất cho họ nhưng cũng chẳng ai ở vì không thể nào bỏ được nghề vì sự tồn tại của họ đã gắn chặt với nghề. Tiếng thở dài của chánh án Đẩu, câu hỏi đầy băn khoăn và tò mò của Phùng, cảm giác bất lực của cả hai người khi nhận ra rằng những biện pháp xuất phát từ lòng tốt và thiện chí của mình lại trở nên phi thực tế. Những điều ấy đã tạo ra một đối sánh với người đàn bà hàng chài đã từng trải, rất hiểu đời, hiểu người và hiểu cả những điều có thể và không thể xảy ra. Sự sâu sắc của chị đã khiến cho người đọc cảm phục nhưng thực sự xót thương cho một kiếp người.

Người đàn bà hàng chài ấy chấp nhận phải chịu những trận đòn vũ phu tàn nhẫn của người chồng không phải do chị ngu muội. Cũng chẳng phải vì chị mang tội lỗi gì với chồng mà chị phải cam chịu, nhẫn nhục những trận đòn ấy không chỉ mà vì trên thuyền luôn cần một người đàn ông mà đánh chị như một giải pháp giúp người chồng vơi đi những u uất và khổ sở chất chứa ở trong lòng. Đó là cách xử sự của một con người đã nắm rõ bổn phận nghĩa vụ của bản thân và cố gắng thực hiện cho xong, đâu đó hiện lên những bổn phận và nghĩa vụ thực sự phi lý. Không chỉ thấu hiểu và xót xa cho nỗi khổ của người chồng, người đàn bà hàng chài còn mang đến một nỗi mặc cảm tội lỗi khi ao ước rằng "giá tôi đẻ ít đi" hoặc "chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn". Nếu Đẩu và Phùng đều cảm thấy ngạc nhiên và bất bình thay cho sự cam chịu và nhẫn nhục của người đàn bà bị chồng hành hạ thì khi hiểu ra nguyên nhân của thái độ ấy, họ lại càng thấy kinh ngạc hơn vì sự nhân hậu và vị tha trong tấm lòng của người đàn bà hàng chài.

Tình mẫu tử đã được người đàn bà ý thức vô cùng sâu sắc như một thiên tính phải có của người phụ nữ "đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình". Chính tình yêu thương sâu sắc với con cái đã khiến cho chị phải nhẫn nhục và chịu đựng được sự dã man của người chồng vì cần có một người đàn ông khỏe mạnh và thành thạo nghề để cùng mình làm ăn nuôi dạy các con. Cũng chính vì sợ các con bị tổn thương trước khung cảnh bạo lực gia đình, chị đã van xin chồng đưa mình lên bờ để đánh, sợ đứa con làm điều gì đó dại dột với bố của mình, người đàn bà hàng chài đã phải cắn răng và gửi đứa con mà chị yêu thương nhất lên bờ sống cùng ông ngoại. Ở người đàn bà thầm lặng đó," tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài". Khi đứa con phải chứng kiến cảnh tượng tàn nhẫn ấy, người đàn bà đã "mếu máo" gọi con rồi lại "chắp tay vái lấy vái", ôm chầm lấy nó, bởi chị sợ chính tình yêu thương, sự ngây thơ non nớt cùng với lòng căm hận, u tối trong thằng bé sẽ khiến nó hành động dại dột. Tiếng khóc của tình thương yêu con và nỗi đau quặn thắt trong trái tim của người mẹ, vừa đau đớn lại vừa xấu hổ, nhục nhã. Chị đau đớn bởi vì khiến con mình tổn thương rồi mới đau cho chính bản thân mình. Khi nhắc tới những lúc sống hòa thuận trên thuyền "khuôn mặt xám xịt chợt ửng sáng lên như một nụ cười". Đó chính là ánh sáng, là một vẻ đẹp của tình mẫu tử, mọi niềm vui hay nỗi buồn đều bắt đầu từ "vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con chúng nó được ăn ngon". Thấp thoáng trong hình ảnh của người đàn bà hàng chài ấy chính là bóng dáng của người phụ nữ Việt Nam vô cùng nhân hậu, bao dung và kiên cường chịu đựng lại giàu lòng vị tha cùng với đức hi sinh "biết hi sinh nhưng chẳng nhiều lời" – Tố Hữu.

Người đàn bà đó đã để lại một ấn tượng vô cùng sâu sắc để nhiều năm về sau tồn tại, khi nhìn lại bức ảnh về “Chiếc thuyền ngoài xa" bây giờ người nghệ sĩ Phùng cũng thấy được hình bóng người đàn bà bước ra khỏi tấm ảnh… hòa lẫn cùng đám đông. Đó chính là hình ảnh của những con người vô danh và khốn khổ ở trong cuộc sống lầm than đời thường. Họ đã hết sức kiên cường vượt lên mọi thứ, không phải cho mình mà là cho những người thân yêu.

Qua những nét khắc họa thực sự ấn tượng từ ngoại hình dáng vẻ tới cử chỉ, lời nói và hành động,…nhân vật người đàn bà hàng chài đã trở thành một hình ảnh đầy ám ảnh giúp cho Nguyễn Minh Châu thể hiện lên tư tưởng nhân đạo sâu sắc trong truyện ngắn. Đó là niềm cảm thông và nỗi lo lắng cho số phận con người bất hạnh bị giam cầm trong cái đói nghèo, khốn khổ và bạo lực. Đồng thời thể hiện lên niềm tin yêu trân trọng vào những phẩm chất cao đẹp trong tâm hồn và tính cách của những con người luôn sống một cuộc sống vô cùng nhân hậu và vị tha.

Đề 5: Cảm nhận của anh/chị về bức ảnh kết thúc truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” và sự trăn trở giữa nghệ thuật và cuộc đời của nhà văn Nguyễn Minh Châu:

"Những tấm ảnh tôi mang về, đã được chọn lấy một tấm. Trưởng phòng rất bằng lòng về tôi. Không những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của tôi vẫn còn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật. Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông..."

Bài mẫu

Nếu như họa sĩ vẽ nên những nét “truyền thần” hút hồn người xem; người cầm ca hát vang lên những nốt nhạc làm say lòng người; hay những bậc nghệ nhân khéo tay làm nên những món đồ thủ mĩ nghệ tinh xảo... thì nhà văn lại kiến tạo nên những giá trị đích thực xuất phát từ mảnh đất cuộc đời. Trên con đường lao động sáng tạo nghệ thuật, người nghệ sĩ chân chính luôn cố gắng “đào xới” hiện thực để tìm ra “chất vàng” gửi gắm trong đứa con tinh thần của mình. Và được coi là “người mở đường tinh anh” trong công cuộc đổi mới văn học nước nhà, Nguyễn Minh Châu luôn ý thức rõ thiên chức của người cầm bút chân chính. Đặc biệt bức ảnh cuối truyện với hình ảnh người đàn bà bước ra khỏi tấm ảnh gửi gắm nhiều ý niệm sâu sắc. Chiến tranh kết thúc đặt điểm nhìn của nhà văn vào một khía cạnh khác. Các sáng tác của họ không còn là những bom đạn, hi sinh trong thời chiến mà trở về với thời bình, con người phải đối mặt với muôn vàn câu chuyện thế sự. Đứng trước nhu cầu đó, Nguyễn Minh Châu đã lao động miệt mài để tìm nên chất liệu đặc biệt cho sáng tác của mình. Điều đáng nói hơn, ông luôn chủ động đi sâu vào tận đời sống xã hội, khai thác mọi biến chuyển của đời sống con người đặc biệt là đời sống tâm hồn để nhìn nhận và phản ánh. Mỗi tác phẩm là một câu chuyện, nhiều mảnh đời và muôn vàn những giá trị nhân văn được đề cập. Mọi khám phá đều được nhà văn khắc họa lại trong tác phẩm nghệ thuật một cách rất nghệ thuật.

Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” như một hồi ức được kể dưới cái nhìn của một nghệ sĩ trên con đường lao động sáng tạo và tìm ra được chân lí nghệ thuật. Được trưởng phòng giao nhiệm vụ chụp một bức ảnh cảnh buổi sáng có sương, Phùng phải xách máy kiếm tìm khoảnh khắc nghệ thuật đó. Sau nhiều lần lỡ hẹn, cuối cùng Phùng chọn cho mình được bức ảnh đắt giá. Bức tranh đó không chỉ là kết quả của quá trình lao động sáng tạo nghệ thuật lâu dài mà nó còn là một tấm gương phản soi những giá trị sâu sắc về cuộc sống.

Với những người đứng ngoài hành trình lao động kiến tạo nghệ thuật, đối với họ bức ảnh của Phùng quả là một bức ảnh mang vẻ đẹp thuần khiết, toàn bích. Đó là vẻ đẹp tựa như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”. Nghệ sĩ Phùng khéo căn chỉnh góc máy để bắt trọn cái hồn túy của bức ảnh. Mũi thuyền đâm thẳng một nét chuẩn mực giữa sắc hồng của ánh mặt trời phản chiếu. Vài bóng người bước vào họa thêm những nét sinh động của cuộc sống thường ngày ở vùng chài lưới. Dưới con mắt và một tâm hồn nghệ sĩ, Phùng cảm được bức ảnh đó nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi. Bức ảnh đó mang trong mình trọn vẹn hơi thở của biển cả và ngồn ngột sức hơi thở cuộc sống mới. Một sự hài hòa tuyệt đối tạo nên một kiệt tác giản đơn nhưng đạt đến độ toàn bích, hoàn mĩ. Đặc biệt dưới con mắt của những người sành nghệ thuật, họ lấy làm tâm đắc và quý trọng, treo bức ảnh đó ở những nơi trang trọng. Nó được xem như là một bức tranh mang vẻ đẹp chuẩn mực khiến người ta rung động và mơ về một cuộc sống căng tràn nhựa sống như thế.

Tuy nhiên, đối với Phùng bức ảnh lại gây nhiều nỗi ám ảnh trăn trở hơn là rung động. Là người trực tiếp thu chụp khoảnh khắc đắt giá ấy vào ống kính, Phùng hiểu rõ đằng sau nét đẹp tuyệt mĩ ấy ẩn chứa nhiều nước mắt của cuộc sống hơn là niềm vui. Phùng cảm nhận được một bức tranh đa sắc màu thay vì chỉ đơn thuần là tấm ảnh đen trắng mà mọi người vẫn nhìn thấy. Phùng bước vào cuộc sống của những chủ thể trong bức tranh, hơn nữa Phùng cận cảnh thấy đằng sau những nét vẽ khỏe khoắn, căng tràn nhựa sống ấy là những vệt đen làm tối mờ cuộc sống. Hiện thực cuộc sống đã ám ảnh trong tâm thức người nghệ sĩ để rồi mãi về sau, khi bức ảnh đã khô mực in, họ vẫn còn nhớ như
in những giá trị hiện thực đã kiến tạo nên vẻ đẹp bức ảnh đó. Nghệ sĩ Phùng thấy đằng sau tấm sương sớm màu hồng ấy là một màu xám u ám bao phủ lấy biết bao mảnh đời. Càng ngắm nhìn, từng nét vẽ hiện lên sống động như những thước phim đưa Phùng về với hiện thực khắc nghiệt của cuộc sống. Cái tâm huyết cùng những trăn trở của người nghệ sĩ đã ăn nhập vào hồn Phùng để rồi ông có những nét chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời.
Đằng sau vẻ đẹp khiến người ta trầm trồ là những khổ đau dằn vặt của người nghệ sĩ. Những người thưởng thức nghệ thuật chỉ ngắm nhìn được thành quả của người nghệ sĩ sau khi chọn lọc kĩ càng để đưa ra những tấm ảnh đẹp nhất, xuất thần nhất. Nhưng ít ai biết rằng, đằng sau vẻ đẹp ấy là những đau thương của những kiếp người mà nếu không có dịp chứng kiến, ngay cả những nghệ sĩ lăn lội nhiều năm như Phùng cũng không thể biết được. Vì thế, giá trị bức tranh không chỉ đơn thuần là những sắc cảnh sinh động tươi sáng của cuộc sống mà sâu trong từng chi tiết, nhiếp ảnh Phùng muốn nói thêm nhiều điều với những người yêu nghệ thuật. Phùng nhìn ra được phía sau bức tranh màu hồng ấy là hiện thực nghiệt ngã của cuộc sống.

Bức qua những nét vẽ điêu thần làm sống dậy cả vùng trời biển cả bao la là một bức tranh xám xịt, ảm đạm về cuộc đời con người “bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh”. Phùng là người lao động làm ra bức ảnh chiếc thuyền ngoài xa ấy nên hơn ai hết, Phùng hiểu rõ cuộc sống hiện thực không đẹp, hoàn hảo được như trong ảnh. Nếu như bức ảnh gợi về một cuộc sống đầy mơ ước thì ở hiện thực, con người còn phải gánh chịu nhiều cảnh khổ mà cuộc đời người đàn bà làng chài là một đại diện tiêu biểu. Bóng lưng của người đàn bà làng chài hằn in những nét khổ cực và khốn cùng của cuộc sống. Bức tranh càng mềm mại, thanh thoát bao nhiêu thì hình ảnh người đàn bà hằn in sâu trong nó lại hiện lên những nét thô kệch, khắc khổ bấy nhiêu. Chỉ trong một câu văn ngắn gọn nhưng Nguyễn Minh Châu đã khéo mô tả rất tinh nhưng đầy đủ và chân thực cuộc sống của người đàn bà làng chài. Với tấm áo bạc phếch lại thêm dăm ba miếng vá, khuôn mặt thì rỗ, trắng nhợt vì kéo lưới suốt đêm. Dường như ngay từ cái nhìn đầu tiên, sự khắc khổ đến tội nghiệp của người đàn bà làng chài đã hằn in trong trí nhớ của Phùng với những ấn tượng sâu sắc nhất. Hình ảnh một người đàn bà sống một đời lam lũ bên tấm lưới kéo, tảo tần bên đàn con thơ. Cuộc sống vật chất đã chẳng đủ đầy, đời sống tinh thần lại càng đè nén lên tấm thân ấy những thiếu thốn, bất an. Vẻ còm cõi bên ngoài chưa phải là bi kịch khi Phùng kịp chứng kiến đằng sau tấm thân nhỏ đáng được bảo vệ ấy là những trận đòn roi. Nửa thân người ướt sũng chính là những đau thương còn chưa kịp ráo nước của trận đòn vừa qua. Xót đau thay, những trận đòi roi ấy là sự tự nguyện từ hai phía kẻ đánh và người bị đánh. Kẻ đánh tự tâm ra tay là điều có thể hiểu được nhưng bi kịch thay, ngay cả người bị đánh cũng cam tâm tình nguyện. Mà đã là tình nguyện thì đây đâu phải lần đầu tiên, cũng không phải lần cuối cùng.

Nó kết thúc như một sự tạm bợ và lại bắt đầu như một quy luật đã ngầm được hình thành. Thực ra có ai nào muốn mình bị đánh, bị làm cho tổn thương rồi nhục nhã ê chề đâu. Chỉ là người đàn bà ấy đang muốn dùng tấm thân nhỏ bé của mình để che chở và bảo vệ gia đình. Đến đây, Phùng không chỉ nhìn ra những cảnh ngộ cuộc đời mà phía sau bức tranh ấy Phùng còn phát hiện những vẻ đẹp rạng ngời của người đàn bà. Đằng sau những đường nét thô kệch là một trái tim ấm nóng, giàu đức hi sinh và lòng vị tha. Trong cuộc nói chuyện với Đẩu và Phùng, người đàn bà đã chỉ ra những cơ sự hàn lâm của cuộc sống. Bà chỉ ra những vấn đề mà ngay cả những người học rộng như Đẩu và Phùng cũng phải nín bặt. Trong cuộc sống, người đà bà toát ra là một người hiểu chuyện và rất mực vị tha. Đối với bà, hạnh phúc chỉ thu bé lại bằng sự quây quần của gia đình, lúc được nhìn những đứa con thơ ăn no, lúc gia đình vui vẻ đầm ấm bên nhau. Người mẹ chấp nhận hi sinh để con cái có được cuộc sống ấm no. Là một người nếm trải nhiều đau thương và sớm lăn lộn với cuộc sống, người đàn bà hiểu rõ những căn nguyên gây nên những trận đòn roi. Người đàn bà còn khẳng định: “Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”. Bà thấu được cảnh khổ của dân chài khi không có người đàn ông, bà không trách móc hay thù oán gì người đàn ông đã gây nên những trận đòn roi mà ngược lại, bà bênh vực, tha thứ cho chồng và đổ lỗi cho cuộc sống. Đây cũng không phải là cuộc sống của mọi người đàn bà làng chài bởi người đàn ông ấy “cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu”.

Như vậy, phía sau một tấm lưng thô kệch là cả trái tim vị tha, giàu đức hi sinh và hết mực yêu thương chồng con. Phía sau manh áo vá là những mảnh đời khổ cực và phía sau người đàn bà khuôn mặt rỗ nhợt trắng xấu xí là cả một tâm hồn đẹp tựa ngọc. Hiểu chuyện, bà dành tất cả tấm thân hao mòn để gồng gánh chịu đựng và giữ hạnh phúc cho các con. Ngay cả bị đánh bà cũng xin người chồng được quyền chịu đánh trên bờ - nơi khuất xa tầm mất của mấy đứa nhỏ. Bà sợ khi chúng chứng kiến cảnh mẹ bị đánh thì chúng lại đau lòng hơn, cũng sợ con cái làm điều không phải với bố nó. Người đàn bà luôn gìn giữ hết mức có thể để mong con được ăn no, mặc ấm. Tình mẫu tử thiêng liêng như giọt máu chảy để nuôi tim.

Nhờ lao động sáng tạo nghệ thuật, nhiếp ảnh Phùng đã nhận ra chân lí nghệ thuật. Nghệ thuật không phải nơi sản sinh ra cái đẹp mà là lấy chất liệu từ cuộc đời để sản sinh ra những giá trị tốt đẹp. Không chỉ trong nhiếp ảnh mà trong bất cứ lĩnh vực nào của nghệ thuật cũng đều phải lấy chất liệu từ hiện thực để sáng tạo. Nếu nghệ thuật chỉ vẽ lên những bức tranh màu sắc, rỗng tuếch tư tưởng thì nó chỉ là tấm màn che mất vẻ đẹp cốt lõi của hiện thực. Âm nhạc chọn lấy tình yêu, nỗi đau hay hạnh phúc của con người để ca vang lên kiếm tìm những tâm hồn đồng điệu. Hội họa, nhiếp ảnh chọn cách khắc họa những bức tranh đời sống. Nhưng đó chưa phải là giới hạn của nghệ thuật. Phùng nhận thấy nghệ thuật có khả năng vượt ra ngoài khuôn khổ chật hẹp ấy để phản ánh cuộc sống và khắc họa nét đẹp chân chính. Tuy nhiên với chất liệu và phương tiện phản ánh có phần hạn hẹp của nghệ thuật nhiếp ảnh, người nghệ sĩ khó lòng chuyển tải hết được những tư tưởng sâu kín trong lòng. Giống như bức ảnh được chọn lồng vào bộ lịch cuối năm. Dù trưởng phòng rất bằng lòng, những người sành chơi nghệ thuật coi nó như bức tranh tuyệt mĩ nhất nhưng họ vẫn chẳng thể cảm được đằng sau vẻ hào nhoáng tráng lệ của buổi trời hồng ấy là một màu đen nhám. Tuy màu đen xám nhưng nó vẫn đủ sức mạnh lan tỏa những vẻ đẹp thầm kín – một trái tim người mẹ, người vợ hết lòng vì gia đình. Cũng phải thẳng thắn thừa nhận rằng, văn học với ngôn từ làm phương tiện chuyển tải hiện thực cuộc sống có sức mạnh riêng để nói lên những vấn đề nhân sinh sâu sắc. Là người mở đường tinh anh cho công cuộc đổi mới văn học của nước nhà, Nguyễn Minh Châu hiểu rõ nhiệm vụ của văn học. Văn học sau những năm 1975 không còn chỗ cho những bom đạn của chiến tranh mà là mảnh đất của những vấn đề của cuộc sống hậu chiến tranh. Con người tạm quên đi tiếng súng và bước vào cuộc sống hòa bình. Văn học tất nhiên phải bám lấy cuộc sống hiện thời mà phản ánh. Do đó, những nhà văn chủ trương đi sâu vào đời sống thế sự, đời tư để tiếp tục nhìn nhận và giải quyết những vấn đề còn nảy sinh trong đời sống xã hội.

Với tôi, văn học sau 1975 có một sức hấp dẫn kì lạ bởi nó gắn liền với hơi thở cuộc sống mà tôi đã, đang và sẽ trải qua. Nó réo lên những vấn đề trăn trở của cuộc sống mà chúng ta đôi lúc vẫn chưa thẳng thắn đối diện với nó. Văn học là tấm gương phản chiếu đời sống “văn học và cuộc sống và hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”. Nguyễn Minh Châu đã nắm bắt hiện thực một cách trung thực, thậm chí ông còn đi sâu vào mọi ngõ ngách tâm hồn nhân vật để phản ánh những hiện thực giằng xé trong nội tâm nhân vật.

Từ truyện ngắn “Bức tranh” đến “Bến quê” rồi “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu đều nhìn nhận trung thực những vấn đề của đời sống con người và xã hội. Ông chủ trương rằng “Văn học bao giờ cũng phải trả lời những câu hỏi của ngày hôm nay, bao giờ cũng phải đối thoại với những người đương thời về những câu hỏi cấp bách của đời sống”. Do đó, văn học với hiện thực như một sợi dây thừng bện chặt vào nhau, có mối quan hệ khăng khít không thể tách rời. Cuộc sống là chất liệu kiến tạo nên tác phẩm. Nhà văn là người chuyển tải cái hiện thực ấy vào văn học một cách nghệ thuật nhưng phải đảm bảo tính thời sự, chân thực của cuộc sống. Những mảnh đời, hiện thực thời đại cứ

hiện lên ngồn ngột trên trang viết của Nguyễn Minh Châu. Nhà văn Tô Hoài cũng đã khẳng định “Đọc Nguyễn Minh Châu, người ta thấy cuộc đời và trang sách liền nhau. Chặng đường đời hôm nay cũng như từng đoạn sáng tạo trên trang giấy của tài năng. Những cái tưởng như bình thường lặt vặt trong cuộc sống hằng ngày dưới con mắt và ngòi bút của Nguyễn Minh Châu đều trở thành những gợi ý đáng suy nghĩ và có tầm triết lý". Nằm lòng mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc sống, giữa nhà văn với cuộc đời, nhà văn sẽ kiến tạo nên những tác phẩm trường tồn “Nghệ thuật nhìn trở lại cuộc sống, nghệ thuật không bao giờ chết. Mỗi tác phẩm nghệ thuật là một cái nhìn: sự trường tồn ấy mãi mãi đang nhìn vào khoảnh khắc thực tại. Cái vĩnh cửu đang nhìn cái khoảnh khắc”. Thông qua bức tranh cuối cùng, nhà văn Nguyễn Minh Châu thể hiện quan niệm nghệ thuật của mình. Ông cũng đã nhiều lần thể hiện quan điểm sáng tác của mình “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”.

Với Nguyễn Minh Châu, hiện thực là máu nuôi sống tác phẩm, quyết đến sự sống còn của một nhà văn. Hiện thực bên ngoài thôi thì chưa đủ dưỡng chất để đảm bảo cơ thể sống phát triển. Đã mang trên mình sứ mệnh của một người lao động nghệ thuật, anh ta phải tham gia vào chiều sâu cuộc sống để nhìn nhận, thể nghiệm và có những quan điểm nhân sinh có giá trị cao “Nhà văn rất cần thiết có mặt ở trên đời để làm công việc cảnh tỉnh nhân loại và báo hiệu trước những tai họa”. Nhà văn không chỉ phải khám phá hiện thực mà còn phải tái hiện hiện thực, phải làm sao để tất thảy mọi người nhận thấy những vấn đề ung nhọt cần phê phán, cải tạo trong xã hội để hướng tới một cuộc sống văn minh, bình ổn “cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời". Trung thực phản ánh cuộc sống thôi thì chưa đủ mà nhà văn phải là người có tư tưởng, tình cảm dồi dào để trên nền hiện thực ấy, nhà văn phải đối thoại với người đọc những vấn đề nhân sinh lớn lao. Ông đã có lần tâm sự rằng “Tôi không thể nào tưởng tượng nổi một nhà văn mà lại không mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống và nhất là tình yêu thương con người. Tình yêu này của người nghệ sĩ vừa là một niềm hân hoan say mê, vừa là một nỗi đau đớn, khắc khoải, một mối quan hoài thường trực về số phận, hạnh phúc của những người chung quanh mình. Cầm giữ cái tình yêu ấy trong mình, nhà văn mới có khả năng cảm thông sâu sắc với những nỗi đau khổ, bất hạnh của người đời, giúp họ có thể vượt qua những khủng hoảng tinh thần và đứng vững được trước cuộc sống”. Hiện thực là cái có sẵn trong cuộc sống nhưng tư tưởng, tình cảm lại khác. Nó là sản phẩm của một con người nhân hậu, trái tim biết yêu thương và tấm lòng nhiệt huyết của một nhà văn nặng lòng với nghề. Cũng chỉ khi có được những điều ấy, bản thân nhà văn mới đủ sâu sắc để đối thoại với người đọc những vấn đề lớn lao. Tư tưởng quyết định nội dung, nội dung chi phối hình thức. Đó là quy luật tuần hoàn mà nếu không có một trong những yếu tố đó, tác phẩm sẽ nhanh chóng bị đào thải khỏi quy luật sáng tạo nghệ thuật.

Hùng Cường