Đến với bài thơ hay: "Nhớ con" - Bài thơ chất chứa tâm tư
Văn nghệ - Ngày đăng : 09:36, 17/10/2013
Mẹ nghề y nhiều đêm trực vắng nhà
Tròn một tuổi, gửi con về quê ngoại
Quê ngoại con là quê mẹ đấy
Sao bây giờ mẹ thấy xa xôi.
Một con đường mờ mịt mưa rơi
Một con đường gió mùa nào cũng ngược
Một chuyến phà, người chờ hai bờ nước
Chiếc cầu phao sóng nổi bồng bềnh.
Con xa rồi, mẹ thức với mông mênh
Quờ cánh tay thấy giường chiếu rộng
Võng cởi rồi, còn dây buộc võng
Tiếng à ơi vương vấn ở hai đầu.
Con xa tuần, mẹ tưởng tháng lâu
Con xa tháng, ngỡ năm trời đằng đẵng
Ðâu mái tóc vàng tơ như nắng
Môi ngây thơ tập gọi: Ơi bà !
Nửa năm trời con mới thấy mặt cha
Cha trở về, và cha đi vội lắm
Ðừng trách con ơi! Cha là người lính
Người lính mấy khi được ở gần nhà.
Mẹ đưa con về ở với bà
Tình thương mẹ san đều hai ngả
Nửa theo gió gửi đi miền đất lạ
Nửa hòa vào con sóng vỗ, lời ru...
Nỗi lòng cha cũng hai nửa phân chia
Nửa nhớ con, nửa thương về nơi mẹ
Chỉ riêng con còn thơ dại quá
Có bao giờ con biết nhớ cha đâu...
Có bao giờ con biết nhớ cha đâu
Nỗi nhớ ấy con dồn về nơi mẹ
Cha đi suốt một thời trai trẻ
Vẫn nguyên lành trong mẹ buổi chia tay.
Vẫn nguyên lành như nỗi nhớ hôm nay
Dáng cha đi trong điệp trùng đội ngũ
Ðừng trách mẹ những đêm dài ít ngủ
Nhớ thương là hạnh phúc những ngày xa.
Trong lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc, cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ được ghi nhận là cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất và oanh liệt nhất. Ðồng thời để lại những dấu ấn đẹp đẽ, sâu đậm nhất với những cung bậc cảm xúc chan chứa của: tình yêu thương, nỗi nhớ nhung, trăn trở... Vì sự xa cách do chiến tranh.
Và bài thơ “Nhớ con” của Vương Trọng tác phẩm khá đặc sắc đã ghi lại những tình cảm cao cả thiêng liêng ấy. Bài thơ trước tiên là nỗi niềm của tác giả, của người lính “cầm súng xa nhà đi chiến đấu”; nhưng cũng là “bức tranh” khắc lên hình tượng người phụ nữ Việt Nam thời chiến.
Bài thơ dài mà mỗi khổ thơ là một nỗi ưu tư, một tấm lòng chất chứa nhớ thương da diết của người lính “mấy khi được ở gần nhà”. Người lính xa nhà đi chiến đấu là một nghĩa vụ cao cả của tuổi trẻ thời đại Hồ Chí Minh, dù phải gác lại những tình cảm thiêng liêng ở hậu phương. Lẽ thường tình khi người ta xa nhà thì nhớ thương người thân yêu hay người từng “một nắng hai sương”.
Bài thơ còn là sự dãi bày tình cảm nhớ thương của tác giả với người vợ tảo tần và nói hộ cho nỗi lòng của người mẹ trẻ vì hoàn cảnh mà phải “... gửi con về quê ngoại”, để nỗi nhớ nhung như nhân lên gấp bội khi phải “... thức với mông mênh”. Và sự trống vắng đến tận cùng của nỗi nhớ: “Con xa tuần mẹ tưởng tháng lâu - Con xa tháng ngỡ năm trời đằng đẵng”. Mà tâm điểm của nỗi nhớ niềm thương là nỗi “Nhớ con” của người lính. Và ai có thể không mềm lòng, không xao động trước hình ảnh “... mái tóc vàng tơ như nắng” và “Môi ngây thơ tập gọi ơi bà!”. Câu thơ quả đẹp và sống động như tấm lòng ưu tư của người lính vậy.
“Nhớ con” không chỉ là nỗi nhớ thương, là tâm tư nặng trĩu của người lính xa nhà đi chiến đấu mà còn cắt nghĩa cho điều băn khoăn day dứt của người trong cuộc, khi nhà thơ tâm niệm “Chỉ riêng con còn thơ dại quá - Có bao giờ con biết nhớ cha đâu...”. Câu thơ cứ như găm vào tim ta nỗi đau khôn cùng bởi chiến tranh. Câu thơ như một niềm khắc khoải, một sự hờn trách mà nguyên nhân hẳn không bao giờ thuộc về đứa con “...còn thơ dại quá”, hẳn thuộc về thời đại mà những kẻ “sen đầm quốc tế” đã biến giấc ngủ em thơ cũng “nằm mơ ngựa sắt”... Và hình ảnh đứa con còn “...thơ dại quá” là tâm điểm của cả bài thơ, là nỗi niềm của mọi nỗi niềm của người lính.
Ðây cũng là hình ảnh trung tâm xuyên suốt bài thơ như sợi chỉ đỏ dệt đan những cảm xúc hồng của tác giả bài thơ - người lính Cụ Hồ. Ðể qua hình ảnh ấy, qua nỗi niềm nhớ thương của nhà thơ, độc giả hay mỗi chúng ta càng hiểu hơn sự khốc liệt của chiến tranh; sự tàn khốc của một cuộc chiến mà chúng ta phải hy sinh cả những tình cảm thiêng liêng nhất: tình cha con - phụ tử để sẵn sàng lên đường chiến đấu cả khi đứa con thơ chưa kịp nhìn và biết “nhớ cha đâu...”.
Bên cạnh những câu thơ “gân guốc” là những câu thơ “mềm” như nỗi niềm của người lính “Vẫn nguyên lành trong mẹ buổi chia tay”. Có thể coi những khổ thơ cuối là một cái kết có hậu. Dù người lính có những nỗi niềm da diết nhớ thương, cái nỗi niềm tưởng như không hề vơi cạn, nhưng rồi cái “...hạnh phúc những ngày xa” vẫn lại đến với họ như quy luật của tình cảm nhớ thương. Bởi họ đã nguyện “...đi suốt một thời trai trẻ” và tình cảm gia đình vẫn canh cánh bên lòng, vẫn nguyên vẹn như “...nỗi nhớ con nay”. Ðó cũng là thông điệp mà tác giả bài thơ muốn nhắn gửi chúng ta về một “thời máu lửa”, một thời mà cái giá của độc lập tự do được đổi bằng bao hy sinh, bao nỗi nhớ thương da diết và “... hạnh phúc những ngày xa” của những người lính xa nhà đi chiến đấu.